Bản án 01/2020/HS-ST ngày 06/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĂM CĂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 06/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Văn D, sinh năm 1973; nơi cư trú: Ấp 13, xã Khánh L huyện M, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: Biết viết tên; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị M; vợ Nguyễn Thị T (đã ly hôn); con 02 người (lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2001); tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 21/11/2019; tạm giam ngày 27/11/2019 (có mặt).

- Bị hại: Ông Lý Văn T, sinh năm 1976; địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào đêm ngày 18/11/2019, Nguyễn Văn D trên đường đi từ nhà người thân là Nguyễn Minh P ở ấp K, xã T, huyện Năm Căn hướng về xã T, huyện Năm Căn. Khoảng 23h cùng ngày, D đi bộ đến khu vực nhà anh Lý Văn T ở ấp N thì D phát hiện vỏ, máy đậu ở bên cạnh cống vuông không người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp vỏ, máy. D xuống vỏ dùng bật lửa (hộp quẹt) mang theo đốt dây cột vỏ, lấy trộm và điều khiển vỏ máy về nhà ông Huỳnh Văn N (bác của D) ở ấp Cái Giếng, xã Đông Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau để nhờ ông N tìm người bán vỏ máy. Ông N không biết tài sản do D lấy trộm mà có nên đã đến gặp ông Lưu Văn N ngụ cùng ấp để kêu bán vỏ máy, do không có giấy tờ vỏ máy nên ông N nghi ngờ là tài sản trộm cắp nên đã báo Công an xã Đông Hưng, huyện Cái Nước biết. Tại trụ sở Công an huyện Cái Nước, D thừa nhận việc trộm vỏ máy ở địa bàn huyện Năm Căn.

Tang vật thu giữ:

- 01 (một) vỏ Composite hiệu Hữu Vui, màu xanh trắng, dài 5,9m;

- 01 (một) đầu máy nổ hiệu Vanguard, 6.0HP, màu đỏ, không có chụp giựt;

- 01 (một) giàn cầu Inox máy Vanguard, 6.0HP;

- 02 đoạn dây thừng tổng chiều dài 2,54m (có dấu bị đốt).

Tại kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 11/KL-HĐĐG ngày 22/11/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự -UBND huyện Năm Căn kết luận:

- 01 (một) vỏ Composite hiệu Hữu Vui, tỷ lệ chất lượng còn lại là 40%, bằng số tiền 2.160.000 đồng;

- 01 (một) đầu máy nổ hiệu Vanguard, 6.0HP, tỷ lệ chất lượng còn lại là 50%, bằng số tiền là 3.383.500 đồng;

- 01 (một) giàn cầu Inox máy Vanguard, 6.0HP, mua mới năm 2015, tỷ lệ chất lượng còn lại 50%, bằng số tiền 916.500 đồng.

Tng giá trị tài sản định giá là 6.460.000 đồng.

Vỏ máy đã trả lại cho bị hại. 02 đoạn dây thừng do Chi cục thi hành án dân sự đang quản lý.

Tại bản cáo trạng số: 02/CT-VKSNC ngày 20 tháng 01 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản mất trộm đã trả lại cho bị hại, nên không đặt ra xem xét; Tịch thu và tiêu hủy 02 đoạn dây thừng không còn giá trị sử dụng.

- Bị cáo thống nhất với nội dung bản cáo trạng, bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, mức hình phạt đề nghị là phù hợp, nhưng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, yêu cầu xử lý bị cáo theo quy định pháp luật, không đặt ra yêu cầu về dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Năm Căn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Năm Căn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 18 tháng 11 năm 2019, bị cáo Nguyễn Văn D có hành vi lấy trộm tài sản là vỏ, máy của bị hại Lý Văn T, giá trị tài sản định giá là 6.460.000 đồng. Vì vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D đã cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; vì muốn có tiền tiêu xài thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bị cáo D đã lợi dụng sự sơ hở của bị hại trong việc quản lý tài sản, bị cáo đã lén lút lấy trộm tài sản. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật bảo vệ; đồng thời, hành vi của bị cáo gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân; bị cáo có nhân thân xấu nên cần phải có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội; góp phần tuyên truyền pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.

[4] Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo trình độ học vấn thấp, chỉ biết viết tên nên nhận thức về pháp luật hạn chế nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã giao trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu bồi thường, nên không đặt ra xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu và tiêu hủy 02 đoạn dây thừng, tổng chiều dài là 2,54m có dấu đốt.

Vật chứng hiện nay do Chi cục thi hành án dân sự huyện Năm Căn đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/01/2020.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: Khon 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 11 năm 2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã giao trả lại cho bị hại nên không đặt ra xem xét.

4. Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy 02 đoạn dây thừng, tổng chiều dài là 2,54m có dấu đốt.

Vật chứng hiện nay do Chi cục thi hành án dân sự huyện Năm Căn đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/01/2020.

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn D nộp 200.000 đồng.

6. Án xử sơ thẩm, những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, vắng mặt tính từ ngày nhận bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 06/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Năm Căn - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về