Bản án 01/2020/HS-ST ngày 03/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 03/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 03 tháng 01 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2019/TLST-HS ngày 18/12/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 125/2019/QĐXXST-HS ngày 23/12/2019 đối với bị cáo:

Bùi Đức C, sinh ngày 22/4/1982 tại xã P, huyện T, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện T, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn T (sinh năm 1948) và bà Nguyễn Thị P (sinh năm 1948); Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Từ năm 2000 đến 2002 thực hiện nghĩa vụ quân sự tại Vân đồn – Quảng Ninh. Năm 2004 phạm tội "Cưỡng đoạt tài sản" tại bản án số 10/2004/HS-ST ngày 16/12/2004 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xử phạt 15 tháng tù giam, đến tháng 12/2005 chấp hành xong hình phạt về sinh sống ở địa phương, chấp hành xong án phí hình sự ngày 27/4/2006; Bị tạm giữ từ ngày 28/10/2019 đến ngày 31/10/2019 chuyển tạm giam đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Thái Thụy. (Có mặt) - Người chứng kiến:

- Ông Phạm Hữu Q, sinh năm 1961; Địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt)

- Ông Đỗ Văn H, sinh năm 1963; Địa chỉ: Thôn N, xã B, huyện T, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 28/10/2019, Bùi Đức C là đối tượng nghiện ma túy, có biểu hiện nghi vấn vi phạm pháp luật điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α có biển kiểm soát 17B6-235.18 đến khu vực nghĩa trang thôn X, xã B, huyện T với mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây, C gặp và mua của người nữ giới, khoảng 30 tuổi (không biết tên và địa chỉ) 01 gói ma túy, loại Heroine với giá 600.000đ, C cất gói ma túy vào túi quần đang mặc rồi điều khiển xe về nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Thái Thụy làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện và bắt quả tang. Trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và những người chứng kiến là ông Phạm Hữu Q và ông Đỗ Văn H, Công an đã tiến hành kiểm tra người C và thu giữ trong túi quần phía trước bên phải quần C đang mặc 01 gói bên ngoài gói bằng giấy màu giấy tráng kim loại màu trắng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, C khai đó là ma túy Heroine vừa mua để sử dụng cho bản thân. Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong 01 gói ma túy (niêm phong Mẫu số A1) đưa đi giám định, ngoài ra còn tạm giữ xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α có biển kiểm soát 17B6-235.18. Cùng ngày cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy khám xét khẩn cấp nơi ở của C nhưng không phát hiện, thu giữ gì liên quan đến ma túy.

Kết luận giám định số 407/KLGĐ-PC09 ngày 29/10/2019 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu số A1 là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,2584gam (Không phẩy hai nghìn năm trăm tám mươi tư gam). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận giám định nêu trên.

Bản cáo trạng số 01/CT-VKSTT ngày 17/12/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố bị cáo Bùi Đức C về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Đức C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng đến 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 28/10/2019, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,2270gam Heroine trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 407/KLGĐ của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Trả lại cho bị cáo chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α có biển kiểm soát 17B6-235.18 mang tên chủ sở hữu Bùi Đức C do đây là phương tiện sinh hoạt hàng ngày của gia đình bị cáo. Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của các Cơ quan tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến ông Phạm Hữu Q và ông Đỗ Văn H. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Thái Thụy lập ngày 28/10/2019; Biên bản khám xét ngày 28/10/2019; Các biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu và biên bản xem xét dấu vết trên thân thể do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy lập ngày 28/10/2019; Kết luận giám định số 407/KLGĐ-PC09 ngày 29/10/2019 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Bùi Đức C đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của nhà nước, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn ma túy của nhà nước. Tệ nạn ma túy còn là mầm mống phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo là người trưởng thành, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết được tác hại rất lớn của ma túy, nhận thức được việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn bất chấp mua về và cất giữ trong người để sử dụng cho bản thân với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo là người đã từng phạm tội, hiểu được sự trừng phạt răn đe của pháp luật nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện và cải tạo bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, việc đưa ra xét xử bị cáo là đúng quy định của pháp luật hình sự và cần phải áp dụng một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục, răn đe bị cáo và góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[5] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo có thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự nên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện để bị cáo yên tâm cải tạo, sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Bị cáo mua ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán kiếm lời. Bản thân bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng gì có giá trị do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: 0,2270gam Heroine hoàn trả sau giám định và toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 407/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α có biển kiểm soát 17B6-235.18 mang tên chủ sở hữu Bùi Đức C là tài sản riêng của bị cáo được bị cáo sử dụng là phương tiện phục vụ cho đời sống sinh hoạt hàng ngày của cả gia đình nên trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: C khai là mua của một người phụ nữ khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Căn cứ vào Điều 106, 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Đức C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Bùi Đức C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù giam, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 28/10/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 0,2270 gam Heroine hoàn trả sau giám định và toàn bộ bao gói mẫu số A1 trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 407/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α có biển kiểm soát 17B6-235.18 do Bùi Đức C là chủ sở hữu nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Các tài sản đồ vật trên có đặc điểm ghi trong biên bản giao nhận vật chứng, tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thái Thụy ngày 17/12/2019).

3. Về án phí:

Bị cáo Bùi Đức C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 03/01/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 03/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về