Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 14/01/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện S xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 618/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2019/QĐXX-ST ngày 30 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đinh Thị H, sinh năm 1988

HKTT: Thôn T, xã Th, huyện S, TP Hà Nội

Địa chỉ: Thôn H, xã C, thành phố Ph, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Bị đơn: Anh Cao Văn C, sinh năm 1986

Địa chỉ: Thôn T, xã Th, huyện S, TP. Hà Nội

Có mặt chị H, anh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện đề ngày 08/8/2019 và trong quá trình xét xử, chị Đinh Thị Hoan trình bày:

-Về tình cảm: Chị và anh Cao Văn C kết hôn có tự do tìm hiểu, tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã Th - huyện S – TP Hà Nội ngày 06/4/2007.

Sau khi kết hôn vợ chồng chị về sống chung với bố mẹ anh C tại thôn T, xã Th, huyện S, TP Hà Nội.

Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Cửu ham chơi cờ bạc, thường xuyên bị thua dẫn đến nợ nần. Chị đã nhiều lần phải trả nợ thay cho anh C nhưng anh C vẫn không thay đổi. Mặt khác do vợ chồng sống chung với bố mẹ chồng nên vợ chồng sống không được hòa hợp, bố mẹ chồng hay soi mói chị nên cuộc sống nhiều áp lực. Sau khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

-Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là: Cao Anh D, sinh ngày 29/02/2008 và Cao Hải Y, sinh ngày 31/12/2011. Hiện nay các con đang ở với anh C. Ly hôn chị đề nghị mỗi người nuôi 01 con, chị nuôi cháu Y, anh C nuôi cháu D, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Hiện nay chị đang làm tự do thu nhập bình quân 5.000.000đ/tháng.

-Về tài sản chung, công sức đóng góp, nợ chung, nhà, đất ở, đất sản xuất nông nghiệp: Vợ chồng chị tự thỏa thuận giải quyết, chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Tại biên bản tự khai và trong quá trình xét xử bị đơn là anh Cao Văn C trình bày:

-Về tình cảm: Anh và chị Đinh Thị H có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Th, huyện S, thành phố Hà Nội ngày 06/4/2007.

Sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung cùng với bố mẹ anh tại thôn T, xã Th, huyện S, TP Hà Nội.

Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc đến khoảng tháng 6/2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng làm ăn thua lỗ dẫn đến nợ nần. Mặt khác vợ chồng không tìm được tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau. Bản thân anh xác định vẫn còn tình cảm với chị H nhưng do chị H cương quyết ly hôn nên anh cũng đồng ý.

-Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là: Cao Anh D, sinh ngày 29/02/2008 và Cao Hải Y, sinh ngày 31/12/2011. Hiện nay con đang ở với anh. Ly hôn anh đề nghị xin được nuôi cả 02 con.

Hiện nay anh đang làm việc tại công ty thương mại và dịch vụ du lịch Khánh Huy thu nhập bình quân từ 8.000.000đ đến 10.000.000đ/tháng.

-Về tài sản chung, công sức đóng góp, nợ chung, nhà, đất ở, đất sản xuất nông nghiệp: Vợ chồng anh tự thỏa thuận giải quyết, anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán; Thư ký Tòa án; Hội đồng xét xử và nguyên đơn, bị đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

- Về ý kiến giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình

+ Về tình cảm: Chấp nhận yêu cầu của chị H, xử chị H được ly hôn anh Cửu.

+ Về con: Giao con chung Cao Anh D cho anh C tiếp tục nuôi dưỡng. Giao con chung Cao Hải Y cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác của Tòa án.

+ Về tài sản chung, công sức, công nợ, đất ở, nhà, đất sản xuất nông nghiệp: Chị H, anh C không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

+ Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị H xin ly hôn anh C, hiện anh C cư trú tại thôn T, xã Th, huyện S, thành phố Hà Nội, căn cứ vào Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện S thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về nội dung: Chị Đinh Thị H kết hôn cùng anh Cao Văn C trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th, huyện S, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận kết hôn số 40, quyển số 01/2007 ngày 06/4/2007. Đây là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng làm ăn thua lỗ, dẫn đến nợ nần rồi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ cuối năm 2018 đến nay. Tại phiên tòa chị H đề nghị xin được ly hôn anh C, anh C đồng ý.

[3] Về con chung: Anh chị có 02 con chung Cao Anh D, sinh ngày 29/02/2008 và Cao Hải Y, sinh ngày 31/12/2011. Ly hôn anh C và chị H đều có nguyện vọng được nuôi con và không đề nghị cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy việc chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên là trách nhiệm và nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ. Anh C và chị H đều có khả năng để nuôi con nên thấy cần giao cho mỗi người nuôi 01 con, giao anh C nuôi cháu D, chị H nuôi cháu Y, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau là phù hợp với quy định của pháp luật cũng như nguyện vọng của các con.

[4] Về tài sản chung, công sức đóng góp, nợ chung, đất ở, nhà, đất sản xuất nông nghiệp: Chị H, anh C không đề nghị nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28; Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 235 Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.

n cứ các Điều 51; Điều 56; Điều 58 Luật hôn nhân gia đình;

n cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị H cho chị Đinh Thị H được ly hôn anh Cao Văn C.

2. Về con chung: Giao chị H trực tiếp nuôi con chung Cao Hải Y, sinh ngày 31/12/2011. Giao anh C tiếp tục nuôi con chung Cao Anh D, sinh ngày 29/02/2008, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác của Tòa án.

Anh C, chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, công sức đóng góp, nợ chung, đất ở, nhà, đất sản xuất nông nghiệp: Tòa án không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm 300.000đ, chị H phải chịu. Được trừ vào số tiền 300.000đ chị H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 00018288 ngày 13/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện S.

5. Về quyền kháng cáo: Chị H, anh C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 14/01/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về