Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 10/02/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/02/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 270/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Mạc Thị Kim N, sinh năm 1974 (có mặt);

Đa chỉ: T 2, khóm VT 2, xã VT, thành phố CĐ, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1975 (vắng mặt);

Đa chỉ: ấp XV, xã N A, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 11/10/2019 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Mạc Thị Kim N trình bày và yêu cầu như sau:

Chị và anh Nguyễn Văn M chung sống với nhau vào năm 1995 đến ngày 20 tháng 11 năm 2003 đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã AS, huyện KH, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn. Quá trình chung sống chị và anh Nguyễn Văn M có 02 người con chung tên Nguyễn Thị Cẩm U, sinh ngày 17/8/1997 hiện nay đã trưởng thành có gia đình sinh sống riêng, Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 15/01/2002, hiện nay đang chung sống với chị; chị và anh Nguyễn Văn M không có tài sản chung và không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị. Thời gian chung sống chị làm dâu tại nhà cha mẹ chồng, anh Nguyễn Văn M làm nghề biển đánh bắt thủy sản, thường xuyên đi làm thỉnh thoảng mới về. Đến năm 2010 chị và anh Nguyễn Văn M đi làm thuê ở Thành phố Hồ Chí Minh có được số vốn chị và anh Nguyễn Văn M đi ra tự buôn bán tự do được 01 thời gian thì anh Nguyễn Văn M sinh thói ăn chơi về kiếm chuyện đánh đập chị vô cớ, chị và anh Nguyễn Văn M thường xuyên cãi vã, có lần anh Nguyễn Văn M ném nguyên loan sữa vào chị bị rách tai trái, chảy máu. Chị buồn về quê chơi vài ngày cho thanh thản nào ngờ anh Nguyễn Văn M dọn dẹp sạch đồ đạc về lại ấp XV, xã N A, huyện AB, tỉnh Kiên Giang sinh sống đến nay. Từ năm 2010 đến nay, anh Nguyễn Văn M hành động vũ phu, xem thường và nhục mạ chị hết lần này đến lần khác. Chị thấy, chị và anh Nguyễn Văn M không còn tình cảm, chị yêu cầu Tòa giải quyết như sau:

Về quan hệ hôn nhân, chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn M; Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 15/01/2002, chị không yêu cầu anh Nguyễn Văn M cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, chị và anh Nguyễn Văn M không có tài sản chung, chị không yêu cầu giải quyết; Về nợ, chị và anh Nguyễn Văn M không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị, chị không yêu cầu giải quyết;

* Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 20/12/2019 và đơn xin vắng mặt trong quá trình giải quyết và xét xử ngày 20/12/2019, bị đơn anh Nguyễn Văn M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân theo yêu cầu của chị Mạc Thị Kim N xin ly hôn với anh thì anh cũng đồng ý. Về quan hệ con chung anh và chị N có 02 người con chung, theo nguyện cọng của các con muốn sống với ai thì người đó nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng. Về tài sản chung và nợ, anh xác định anh và chị N không có tài sản chung, không nợ người khác, người khác không nợ anh chị và anh không yêu cầu giải quyết, anh bận công việc gia đình nên anh xin vắng mặt trong quá trình giải quyết và xét xử.

* Tại bản trình bày nguyện vọng ngày 09/01/2020, Nguyễn Thị Bích T trình bày:

Cha của Nguyễn Thị Bích T là Nguyễn Văn M và mẹ là Mạc Thị Kim N, từ khi cha mẹ của Nguyễn Thị Bích T ly thân đến nay Nguyễn Thị Bích T chung sống với mẹ. Tòa án giải quyết cho cha mẹ của Nguyễn Thị Bích T ly hôn thì Nguyễn Thị Bích T có nguyện vọng chung sống với mẹ là Mạc Thị Kim N.

* Tại biên bản xác minh ngày 05/12/2019, về nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân:

Chị N và anh M chung sống với nhau thường xuyên đi làm ăn nên nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng không biết rõ, chị N và anh M có 02 người con chung, chị N đang nuôi dưỡng.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Giấy chứng minh nhân dân Mạc Thị Kim N và Nguyễn Văn M, Sổ hộ khẩu, Giấy chứng nhận kết hôn Mạc Thị Kim N và Nguyễn Văn M, Giấy khai sinh con tên Nguyễn Thị Cẩm U và Nguyễn Thị Bích T, Biên bản xác minh ngày 05/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, Tờ ghi ý kiến ngày 20/12/2019 của Nguyễn Văn M, Đơn xin vắng mặt trong quá trình giải quyết và xét xử vụ án ngày 20/12/2019 của Nguyễn Văn M, Bản trình bày nguyện vọng ngày 09/01/2020 của Nguyễn Thị Bích T.

* Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Mạc Thị Kim N yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn M. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 15/01/2002, chị không yêu cầu anh Nguyễn Văn M cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ, chị và anh Nguyễn Văn M không có tài sản chung, không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị nên chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn M có đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, xác định mối quan hệ pháp luật, đưa tư cách đương sự tham gia tố tụng, về thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh, tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát đúng trình tự thủ tục và thời gian quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 48, Điều 51, Điều 68, các Điều 208, 209, 210, 211, 239 và Điều 247 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn yêu cầu xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Chị Mạc Thị Kim N và anh Nguyễn Văn M chung sống với nhau vào ngày 20 tháng 11 năm 2003 đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã AS, huyện KH, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến hôn nhân lâm vào trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị N yêu cầu được ly hôn với anh M là có căn cứ chấp nhận; về con chung, anh chị có được 02 người con chung tên Nguyễn Thị Cẩm U, sinh ngày 17/8/1997 hiện nay đã trưởng thành có gia đình sinh sống riêng, Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 15/01/2002 hiện nay đã trưởng thành và đang chung sống với chị N, có nguyện vọng chung sống với chị N. Khi ly hôn chị N yêu cầu được nuôi dưỡng con tên Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 15/01/2002, theo nguyện vọng của con anh chị nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của chị N và anh M, giao con chung của anh chị tên Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 15/01/2002 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng, chị N không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị không xem xét; về tài sản chung và nợ chị N và anh M xác định không có, không yêu cầu giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Mạc Thị Kim N yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn M và tranh chấp về nuôi con, anh Nguyễn Văn M cư trú ấp XV, xã NA, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, anh Nguyễn Văn M có văn bản trình bày ý kiến, Toà án tổ chức và thông báo cho các bên đương sự để tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh M có đơn xin vắng mặt trong quá trình giải quyết và xét xử. Như vậy, đây là thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại Điều 206 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Đồng thời, tại phiên toà chị N không yêu cầu hoãn phiên toà. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh M theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 228, điểm b khoản 1 Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Xét về quan hệ hôn nhân, chị Mạc Thị Kim N và anh Nguyễn Văn M chung sống với nhau vào năm 1995 đến ngày 20 tháng 11 năm 2003 đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân xã AS, huyện KH, tỉnh Kiên Giang là nơi cư trú một trong các bên của anh chị) và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 38, quyển số: 01/2003, ngày 20 tháng 11 năm 2003, anh chị đảm bảo các điều kiện kết hôn khác theo quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nay là Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu của chị Mạc Thị Kim N được ly hôn với anh Nguyễn Văn M, thời gian anh chị chung sống thường xuyên phát sinh mâu thuẫn cãi vã, nguyên nhân là anh Nguyễn Văn M sinh thói ăn chơi về kiếm chuyện đánh đập chị vô cớ, có lần anh M ném nguyên loan sữa vào chị bị rách tai trái, chị buồn về quê chơi vài ngày cho thanh thản, anh M dọn hết đồ đạc về lại ấp XV, xã NA, huyện AB, tỉnh Kiên Giang sinh sống ly thân với chị đến nay. Từ năm 2010 đến nay, chị thấy chị và anh M không còn tình cảm vợ chồng nên chị yêu cầu được ly hôn với anh M. Anh M cũng đồng ý ly hôn với chị N nhưng anh M không tham gia phiên họp và phiên tòa, có đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt nên không thể ghi nhận sự tự thuận tình ly hôn giữa chị N và anh M được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên và yêu cầu khởi kiện của chị N, cho chị Mạc Thị Kim N được ly hôn với anh Nguyễn Văn M là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ con chung, chị N và anh M có 02 người con chung tên Nguyễn Thị Cẩm U, sinh ngày 17/8/1997 hiện nay đã trưởng thành có gia đình sinh sống riêng, Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 15/01/2002 đang chung sống với chị N. Khi ly hôn chị N yêu cầu được nuôi dưỡng con tên Nguyễn Thị Bích T; anh M cũng đồng ý theo nguyện vọng của con nhưng do anh M vắng mặt nên không thể ghi nhận việc thỏa thuận nuôi con của chị N và anh M được. Đồng thời, con của anh chị tên Nguyễn Thị Bích T có nguyện vọng được chung sống với mẹ là chị N. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, yêu cầu của chị N, ý kiến trình bày của anh M và nguyện vọng của con anh chị, giao con chung của anh chị tên Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 15/01/2002 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con, chị N không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ, chị Mạc Thị Kim N và anh Nguyễn Văn M xác định, anh chị không có tài sản chung, không nợ người khác, người khác không nợ anh chị và anh chị không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

[4] Về án phí, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu nhưng được trừ vào số tiền đã tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 206, khoản 1 Điều 227, Điều 228, điểm b khoản 1 Điều 238, Điều 241, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Mạc Thị Kim N được ly hôn với anh Nguyễn Văn M.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung của anh chị tên Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 15/01/2002 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng Nguyễn Thị Bích T, con của anh chị hiện nay đang chung sống với chị N.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

4. Về tài sản chung và nợ: Chị Mạc Thị Kim N và anh Nguyễn Văn M xác định anh chị không có tài sản chung, không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị và anh chị không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

5. Về án phí: Buộc chị Mạc Thị Kim N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0008208 ngày 04 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Mạc Thị Kim N đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

6. Báo quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 10/02/2020. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 10/02/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về