Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 307/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Hồ Huy H, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện G, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

2. Bị đơn: Bà Trần Thị C, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu phố H, phường L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 09/12/2019, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Hồ Huy H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Hồ Huy H và bà Trần Thị C tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Gio H, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Trong quá trình chung sống, giữa hai vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do giữa hai bên không có sự hòa hợp và bất đồng về quan điểm sống, không khắc phục được mâu thuẫn, từ tháng 9/2019 ông bà đã sống mỗi người mỗi nơi. Đến nay không thể tiếp tục đời sống C với nhau, ông H thấy tình cảm không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông H được ly hôn với bà C.

Về con chung: Ông Hồ Huy H và bà Trần Thị C có 01 con C là Hồ Ngọc H1, sinh ngày 12/05/2016. Ông H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con và không yêu cầu bà C thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ông Hồ Huy H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản trình bày ý kiến đề ngày 27/12/2019, Đơn trình bày và Giấy xác nhận cùng đề ngày 03/3/2020, tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa bị đơn bà Trần Thị C trình bày:

Thời gian kết hôn và quá trình chung sống của bà C và ông Hồ Huy H như trình bày của ông H là đúng. Trong đời sống vợ chồng Ông, Bà đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do quan điểm sống hoàn toàn khác nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể khắc phục. Do đó, bà Trần Thị C đồng ý ly hôn với ông Hồ Huy H.

Về con chung: Bà C có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con là Hồ Ngọc H1, sinh ngày 12/5/2016 và yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu H1 thành niên và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân. Bà C cho rằng bà có các điều kiện nuôi con phù hợp hơn ông H, cụ thể: Từ khi sinh ra cho đến hiện tại thì bà C là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con và thực hiện các nghĩa vụ về giáo dục với con, như: đưa đón đi học, trực tiếp đóng tất cả các khoản học phí, tiền ăn tại trường Mầm non Vành Khuyên cho cháu H1; bà C có điều kiện thuận lợi về nhà ở tại Khu phố H, phường L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị và thu nhập ổn định hàng tháng là 13.900.000 đồng trong khi ông H hiện đang là giáo viên dạy hợp đồng tại trường THPT huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị, tạm trú tại trường.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà phát biểu quan điểm: Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện của ông Hồ Huy H là đúng thẩm quyền. Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đảm bảo về trình tự thủ tục tố tụng theo quy định; tại phiên Tòa Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng trình tự; những người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 55; Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Hồ Huy H và bà Trần Thị C. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Hồ Ngọc H1 cho bà Trần Thị C trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Ông Hồ Huy H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng kể từ tháng 5/2020 cho đến khi cháu H1 đủ tuổi thành niên và có khả năng lao động nuôi sống bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ông Hồ Huy H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn bà Trần Thị C là quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn bà Trần Thị C đang trú tại thành phố Đông Hà nên theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử thấy:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Hồ Huy H và bà Trần Thị C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã Gio Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 18/2015/ QS 01/2013 ngày 24/7/2015. Đây là hôn nhânhợp pháp. Trong quá trình chung sống ông bà đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính tình không hợp, quan điểm sống hoàn toàn khác nhau. Từ tháng 9/2019 đến nay, Ông Bà sinh sống mỗi người mỗi nơi, không ai còn quan tâm đến cuộc sống của ai, cả ông, bà đều mong muốn được ly hôn. Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương về các ý kiến trình bày của các đương sự. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa ông Hồ Huy H với bà Trần Thị C mâu thuẫn đã trầm trọng, không thể khắc phục được, mục đích hôn nhân không đạt được, nguyện vọng thuận tình ly hôn của ông H, bà C là có căn cứ. Vì vậy, cần công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Hồ Huy H và bà Trần Thị C.

- Về con chung: Ông Hồ Huy H và bà Trần Thị C có 01 con chung là: Hồ Ngọc H1, sinh ngày 12/5/2016. Ông H có nguyện vọng sau khi ly hôn được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu H1, không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con. Bà C cũng có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi cháu H1, yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi cháu H1 mỗi tháng 1.000.000 đồng. Xét thấy, việc ông H và bà C đều mong muốn trực tiếp nuôi dưỡng con là nguyện vọng chính đáng. Ông Hồ Huy H hiện là giáo viên làm việc theo hợp đồng có thời hạn tại trường trung học phổ thông Đakrông, bà C làm nghề cắt, uốn tóc. Cả hai ông bà đều có thu nhập, khả năng và điều kiện cơ bản để nuôi con đều đảm bảo. Tuy nhiên, cháu Hồ Ngọc H1, sinh ngày 12/5/2016 là bé gái, đang còn nhỏ. Bà C có nơi ở ổn định, từ nhỏ đến nay cháu H1 đều sống với bà C và đang theo học ở trường Mầm non Vành Khuyên. Kết quả thu thập chứng cứ cho thấy từ năm 2017 đến nay bà C là người chăm sóc đưa đón, thực hiện nghĩa vụ đóng góp học phí, tiền ăn và các chi phí khác cho cháu H1, đảm bảo tốt cho cháu H1. Ông H hiện nay đang cư trú tại Gio Hải, Gio Linh nhưng công tác tại huyện Đakrông. Đơn vị công tác khá xa nhà nên điều kiện chăm sóc con còn nhỏ cũng có phần hạn chế. Do đó, đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, cần tiếp tục giao cháu H1 cho bà C trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn để ổn định về tâm lý của trẻ nhỏ và đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu H1.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Bà C yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng là phù hợp nên chấp nhận.

- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Về án phí: Ông H và bà C phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm; ông H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 55; 81; 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên:

- Về quan hệ hôn nhận: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Hồ Huy H và bà Trần Thị C.

- Về con chung: Giao cháu Hồ Ngọc H1, sinh ngày 12/5/2016 cho bà Trần Thị C trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Ông Hồ Huy H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu H1 mỗi tháng 1.000.000 đồng, kể từ tháng 5/2020 cho đến khi cháu H1 đủ tuổi thành niên và có khả năng lao động nuôi sống bản thân.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Ông Hồ Huy H phải chịu 150.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2018/0000358 ngày 20/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà. Ông H còn phải nộp 150.000 đồng tiền án phí.

Bà Trần Thị C phải chịu 150.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi tương ứng với số tiền chậm thi hành án, tại thời điểm thanh toán. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

398
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về