Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 03/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH - TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ- ST NGÀY 03/01/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 03 tháng 01 năm 2020. Tại trụ sở TAND huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 36/2019/TLST- HNGĐ ngày 28/3/2019 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 28/11/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Khắc S, sinh năm 1959. (Có đơn xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Th, xã M, huyện Th, tỉnh B.

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1964 (Có mặt). ĐKHK: Thôn Th, xã M, huyện Th, tỉnh B.

Hiện trú tại: Thôn N, Thị Trấn G, huyện G, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản lấy lời khai nguyên đơn anh Nguyễn Khắc S trình bày như sau:

Anh kết hôn với chị Nguyễn Thị H, ngày ngày 02 tháng 12 năm 1989 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã M, huyện Th, tỉnh B. Sau khi tổ chức lễ kết hôn chị H về chung sống ngay, tình cảm vợ chồng ban đầu hoà thuận, hạnh phúc. Năm 1998 anh bị tai nạn lao động mất 95% sức khoẻ. Năm 2007 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do sức khỏe của anh yếu, chị H không chăm sóc quan tâm anh. Năm 2009 anh đã đuổi chị H đi và vợ chồng đã ly thân và chấm dứt mọi quan hệ từ đó đến nay. Năm 2010 chị H có đơn ly hôn anh Tòa án nhân dân huyện Thuận thành đã xử bác đơn ly hôn. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1992 và Nguyễn Thị Lan Ph, sinh năm 1995. Nay cả hai con chung đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về tài sản: Anh xác định trong thời gian vợ chồng chung sống năm 1996 vợ chồng có mua 01 mảnh đất ở Ấ, Thị Trấn H. Năm 2007 vợ chồng bán thửa đất trên được 236.000.000 đồng sau khi đã trả nợ số tiền còn lại là 180.000.000 đồng, anh đã gửi ở Quỹ tín dụng M, năm 2008 chị H đã rút về cả gốc và lãi được 196.000.000 đồng số tiền này anh được biết chị H đã gửi vào Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh huyện G. Nay anh xác định số tiền trên cả gốc và lãi khoảng 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng chẵn). Ly hôn anh đề nghị Tòa án xem xét phân chia theo quy định pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án anh xác định chị H đã trả anh 200.000.000 đồng tiền tài sản số tiền này chị H đã chuyển vào tài khoản của cháu Nguyễn Thị Ph và cháu Nguyễn Thị Lan Ph phần còn lại trừ vào tiền nuôi con trong thời gian học Đại học. Nay ly hôn anh không yêu cầu Tòa án xem xét phần tài sản của vợ chồng.

Về công nợ và đất nông nghiệp: Anh xác định vợ chồng không vay nợ ai, ruộng đất nông nghiệp không có nên anh không đề nghị Toà án xem xét, giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai tại Tòa án chị Nguyễn Thị H trình bày: Anh Nguyễn Khắc S có đơn xin ly hôn chị tại Toà án huyện Thuận Thành.

Nay chị nhận được thông báo thụ lý của Toà án chị có quan điểm nhất trí để Toà án tiếp tục giải quyết vụ án.

Về quan hệ hôn nhân : Chị xac nhân lơi trinh bay cua anh S vê thơi gian và điều kiện kêt hôn là đúng , từ năm 2005 thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh S thường xuyên chửi bới xúc phạm chị. Tháng 9/2019 anh đã đuổi chị và vợ chồng đã sống ly thân và chấm dứt mọi quan hệ từ đó đến nay. Nay anh S có đơn ly hôn chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị nhất trí ly hôn theo đề nghị của anh S.

Về con chung: Chị xác nhận vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1992 và Nguyễn Thị Lan Ph, sinh năm 1995. Nay cả hai con chung đã trưởng thành nên chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về tài sản: Chị xác định trong thời gian vợ chồng chung sống vợ chồng có mua sắm xây dựng được những tài sản sau: Mua 01 xe đạp Mi pha anh S đang quản lý, 01 xe Angel, năm 1990 bố mẹ anh S cho vợ chồng 01 thửa đất và ngôi nhà cấp 4 xây dựng trên thửa đất tuy nhiên ly hôn chị không yêu cầu Toà án xem xét phân chia. Năm 1996 vợ chồng có mua 01 mảnh đất ở Ấ - Thị Trấn H. Năm 2007 vợ chồng bán thửa đất trên được 236.000.000 đồng sau khi trả nợ số tiền còn lại là 180.000.000 đồng chị quản lý và gửi lãi cho tới nay, tuy nhiên chị xác định số tiền này chị đã trả anh S 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) và chị đã chuyển vào tài khoản của cháu Ph, cháu Ph1 còn số tiền lãi chị nuôi cháu Ph ăn học trong thời gian học đại học. Ly hôn anh S không đề nghị Tòa án xem xét phân chia thì chị nhất trí.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn anh Nguyễn Khắc S xin được vắng mặt tại phiên tòa và anh vẫn đề nghị được ly hôn với chị H và anh không yêu cầu Tòa án xem xét phân chia tài sản của vợ chồng.

Chị Nguyễn Thị H nhất trí với yêu cầu của anh S về việc ly hôn và không yêu cầu phân chia tài sản của vợ chồng.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu và kết luận việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự.

Về tố tụng: Tòa án tiến hành thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền và thời hạn theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Áp dụng Điều 147, Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về lệ phí án phí Tòa án. Đề nghị HĐXX tuyên xử:

1.Về quan hệ vợ chồng: Xư cho anh Nguyễn Khắc S được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

2. Về con chung: Các con chung đã trưởng thành nên không xem xét.

3. Vê tài sản chung , công nơ, công sưc đong gop va ruông canh tac tai đia phương: Các đương sự không yêu cầu; Do vây không xem xet giai quyêt.

4. Vê an phi: Miễn án phí ly hôn sơ thẩm cho anh Nguyễn Khắc S.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà; Sau khi nghe vị đại diện Viện kiểm sát trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng; Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, phía nguyên đơn anh Nguyễn Khắc S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng anh S vắng mặt và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Khắc S kết hôn với chị Nguyễn Thị H, ngày 02 tháng 12 năm 1989, trước khi kết hôn anh chị có được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Th, tỉnh B đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về kết hôn, do vậy là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Khắc S; Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh S và chị H là đã lâu; nguyên nhân chủ yếu là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên anh chị đã thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2009 đến nay. Năm 2010 chị H có đơn ly hôn Tòa án đã xét xử bác đơn ly hôn tuy nhiên từ đó tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được. Nay anh S và chị H đều xác định tình cảm vợ chồng không còn , không thể chung sống và đoàn tụ với nhau được nữa . Tại phiên toà hôm nay anh S vắng mặt và ý kiến của anh là anh xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị được ly hôn với chị Nguyễn Thị H, chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị nhất trí ly hôn với anh S; Xét thấy lời đề nghị của anh S xin được ly hôn chị H là hoàn toàn chính đáng và phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Khắc S được ly hôn chị Nguyễn Thị H là phù hợp.

Về con chung: Anh Nguyễn Khắc S và chị Nguyễn Thị H đều trình bày vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1992 và Nguyễn Thị Lan Ph, sinh năm 1995. Nay cả hai con chung đã trưởng thành nên đều không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Do vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

Về tài sản, công nợ, công sức đóng góp và đất nông nghiệp: Anh Nguyễn Khắc S và chị Nguyễn Thị H đều không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Do anh Nguyễn Khắc S bị mất 95% sức khoẻ và được hưởng chế độ do vậy cần miễn toàn bộ án phí cho anh Nguyễn Khắc S là phù hợp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 Áp dụng: Điều 147; khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56 Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Anh Nguyễn Khắc S được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

2. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm cho anh Nguyễn Khắc S.

Trả lại ạnh Nguyễn Khắc S số tiền 300.000đ tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003061 ngày 28/3/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Thành).

Đương sự có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt án vắng mặt hoặc niêm yết kết quả bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 03/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về