Bản án 01/2020/DS-ST ngày 26/05/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LÂM - TỈNH KHÁNH HOÀ

BẢN ÁN 01/2020/DS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 26/5/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cam Lâm xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 70/2019/TLST-DS ngày 09/9/2019 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2020/QĐXXST-DS ngày 10/3/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2020/QĐST-DS ngày 27/3/2020, Thông báo mở lại phiên tòa số 02/2020/TB- TA ngày 23/4/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2020/QĐST-DS ngày 11/5/2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Võ Thị Minh T - sinh năm: 1962 Địa chỉ: thôn Đ, xã S, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. (Có mặt tại phiên tòa) * Bị đơn:

1. Ông Phạm Văn B - sinh năm: 1959 Địa chỉ: thôn T, xã S, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. (Vắng mặt tại phiên tòa)

2. Bà Nguyễn Thị T – sinh năm: 1962 Địa chỉ: thôn T, xã S, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 29/8/2019, bản tự khai ngày 19/9/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn Võ Thị Minh T trình bày: Vào ngày 12/10/2014 Âm lịch, vợ chồng ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T có đến nhà bà T vay 30.000.000 đồng và hẹn đến ngày 12/01/2015 sẽ trả tiền. Đến ngày 22/10/2014 Âm lịch, bà T đến nhà bà T vay thêm 5.000.000 đồng và ghi thêm vào giấy mượn tiền ngày 12/10/2014 Âm lịch. Ngày 05/3/2015, ông B, bà T tiếp tục vay thêm bà T 20.000.000 đồng. Tổng cộng ông B, bà T vay của bà T 55.000.000 đồng. Đến hạn trả nợ nhưng ông B, bà T vẫn chưa trả nợ cho bà T và còn nợ bà T 55.000.000 đồng. Nay bà T yêu cầu ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T trả cho bà một lần số tiền còn nợ là 55.000.000 đồng và không yêu cầu trả lãi phát sinh.

Trong biên bản lấy lời khai ngày 28/10/2019, bị đơn Nguyễn Thị T trình bày: Vợ chồng bà T có vay của bà Võ Thị Minh T hai lần vào ngày 12/10/2014 Âm lịch là 35.000.000 đồng và vào ngày 05/3/2015 là 20.000.000 đồng, tổng cộng là 55.000.000 đồng. Số tiền này là vợ chồng bà T vay cho cháu, nhưng sau đó cháu bà không trả và đã bỏ trốn. Bà T đã đến xưởng gỗ của cháu bà lấy một bộ bàn ghế salon mới trị giá 35.000.000 đồng để trừ nợ nhưng bà T không cũng cấp được chứng cứ để chứng minh cho việc cấn trừ này. Bà T cho rằng vợ chồng bà chỉ còn nợ bà T 20.000.000 đồng. Bà T xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát có ý kiến như sau:

- Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn Võ Thị Minh T đã chấp hành đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn Phạm Văn B và Nguyễn Thị T không chấp hành các quy định của pháp luật về tố tụng, đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

- Về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 471, Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T phải trả cho bà Võ Thị Minh T số tiền là 55.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng:

Ngày 30/8/2019, bà Võ Thị Minh T có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T phải trả số tiền đã vay, đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm đã thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; Điều 35; Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn Phạm Văn B và Nguyễn Thị T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Vào ngày 12/10/2014 Âm lịch, vợ chồng ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T có vay của bà Võ Thị Minh T 30.000.000 đồng và hẹn đến ngày 12/01/2015 sẽ trả tiền. Đến ngày 22/10/2014 Âm lịch, bà T đến nhà bà T vay thêm 5.000.000 đồng và ghi thêm vào giấy mượn tiền ngày 12/10/2014 Âm lịch. Ngày 05/3/2015, ông B, bà T tiếp tục vay thêm bà T 20.000.000 đồng. Tổng cộng ông B, bà T vay của bà T 55.000.000 đồng. Bà T đã nhiều lần yêu cầu ông B, bà T trả lại tiền nhưng ông B, bà T vẫn chưa trả tiền cho bà T. Bà T thừa nhận có vay của bà T 55.000.000 đồng tiền gốc. Bà T cho rằng bà T đã lấy một bộ ghế salon trị giá 35.000.000 đồng của cháu bà để trừ nợ nhưng không có tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho việc cấn trừ nợ này và bà T không thừa nhận có việc cấn trừ nợ trên mà cho rằng bộ ghế này là do bà mua lại của ông Nguyễn Văn H với số tiền 31.000.000 đồng, bộ bàn ghế này không thuộc sở hữu của bà T, ông B. Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở để chấp nhận ý kiến của bà T. Bà T xin trả dần số nợ còn lại nhưng yêu cầu này không được bà T chấp nhận. Hội đồng xét xử xét thấy việc ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ là xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của bà Võ Thị Minh T. Vì vậy, cần căn cứ Điều 471, Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005, buộc ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Võ Thị Minh T là 55.000.000 đồng.

Bà T không yêu cầu ông B, bà T trả lãi phát sinh nên Hội đồng xét xử không xét.

 [3] Về án phí: Yêu cầu của bà Võ Thị Minh T được chấp nhận toàn bộ nên ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; án phí ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T phải chịu là: 55.000.000 x 5% = 2.750.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ Điều 471; Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T phải trả cho bà Võ Thị Minh T 55.000.000 đồng (Năm mươi lăm triệu đồng).

2. Về án phí: Ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T phải chịu 2.750.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho bà Võ Thị Minh T 1.375.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số AA/2018/0007816 ngày 06/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cam Lâm.

3. Quy định: Kể từ ngày bà Võ Thị Minh T có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguyên đơn Võ Thị Minh T có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị đơn Phạm Văn B, Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/DS-ST ngày 26/05/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:01/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cam Lâm - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về