Bản án 01/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAKRÔNG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 01 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đakrông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

LÊ BÁ Q; (tên gọi khác: T) Sinh ngày: 01/7/1990

Nơi ĐKNKTT và chổ ở: Khu phố 9, phường 5, thành phố Đ, tỉnh Q.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Phật giáo. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12 Con ông: Lê Bá T - sinh năm 1945 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1946, trú tại khu phố 9, phường 5, thành phố Đ, tỉnh Q.

Tiền án: Có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 08 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng, kể từ ngày 09/01/2018 theo Bản án số 01/2018/HSST ngày 09/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

Tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/10/2018 - có mặt tại phiên tòa - Người bào chữa cho bị cáo: Bà Dương Thị Lê – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Trị- Có mặt.

- Người bị hại: Anh Hồ Văn Đ, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn V, xã Đa, huyện Đ, tỉnh Q- Có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

+ Bà Hồ Thị B; sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn V, xã Đa, huyện Đ, tỉnh Q - Có mặt;

+ Ông Hồ Văn Đ; sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn V, xã Đa, huyện Đ, tỉnh Q- Có mặt;

+ Anh Nguyễn Văn T; sinh năm 1983; địa chỉ: Khu phố 8, phường 5, thành phố Đ, tỉnh Q - Vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ ngày 19/10/2018, Lê Bá Q gọi điện thoại trước cho bạn tên là T, ở khóm 4, thị trấn K, huyện H, sau đó đón xe khách từ thành phố Đông Hà lên thị trấn K gặp nhau. Gặp T, Q nảy sinh ý định đi lấy trộm xe máy nên hỏi T: “Ở đây chổ mô có xe không, kiếm chiếc về đi”? T trả lời: “ngồi chơi tí rồi tau chở đi”. Đến khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô chở Q đi, Q hỏi T: “Bộ phá khóa chổ mô”? T trả lời: “tí kiếm cho”. Trên đường đi, cả hai ghé vào quán ở thị trấn K ăn cháo; T nói với Q: “Vô ngồi đó ăn cháo để tau đi kiếm”.Khoảng 5 phút sau T quay lại điều khiển xe mô tô chở Q chạy về hướng Đông Hà để tìm xe máy lấy trộm. Khi về đến Km 52 Quốc lộ 9, thuộc địa phận thôn V, xã Đa, Q thấy nhà bà Hồ Thị B có khoảng 4 đến 5 chiếc xe máy để cạnh nhà phía bên trái, Q nói với T: “Dừng cho xuống đây được, có xe đây rồi”. T dừng xe, mở cốp lấy, đưa cho Q một cái đoản bằng thanh kim loại, hình chữ T, một chùm chìa khóa có 03 chìa được bọc trong khẩu trang vãi màu xám, Q hỏi T: “Cái đoản này không có mũi thì mở kiểu răng”? T trả lời “Nếu lấy được xe thì chạy về một đoạn đợi tau đem mũi về cho”. Nói xong, T chạy xe lên huyện H. Q đứng trước nhà bà B quan sát khoảng 5 phút rồi mở cổng, đi vào nhà, dùng chìa khóa dắt vào ổ khóa điện xe mô tô HONDA Wave màu đỏ đen bạc, dắt bộ xe ra cổng nhà, dùng tay bật mạnh chìa khóa và mở được ổ khóa điện, khởi động xe chạy về phía Đông Hà. Chạy khoảng 100 mét, qua cầu Bông Kho thì xe hết xăng, nên Q dựng xe mô tô ở mép đường bên phải rồi rút chìa khóa xe đi bộ về hướng thành phố Đông Hà. Đi về khoảng 100 mét, Q gặp anh Hồ Văn Đ điều khiển xe máy chạy từ phía sau đến, dừng lại hỏi: “Mấy giờ rồi mà còn đi mô đây”? Q trả lời: “Đi ngừa hàng”; thấy nghi ngờ nên anh Đ quay đầu xe chạy lên gọi thêm người để bắt giữ Q; lúc này Q chạy trốn, núp ở hố đất, phía sau bụi cây bên đường, cởi vứt áo mưa ở đó. Thấy có xe Taxi do anh Nguyễn Văn T ở khu phố 8, phường 5, thành phố Đông Hà điều khiển chạy từ Hướng Hóa về nên Q ra đón dừng, mở cửa lên xe và nói: “Chạy đi”; tài xế hỏi: “Đi mô”? Q trả lời:

Về Đông Hà”.; tài xế hỏi” “Tiền bạc như răng”? Q trả lời: “Mấy thì về Đông Hà em trả cho”; Q dục tài xế: “Anh chạy nhanh lên”. Xe Taxi chưa kịp chạy thì bị người dân trong thôn V chạy đến giữ lại và báo Công an huyện Đakrông bắt giữ Q.

Bản Kết luận định giá số 40/KL-GĐ ngày 23/10/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đakrông kết luận: Xe mô tô HONDA Wave alpha, màu sơn đỏ đen bạc, số khung 1218DY623296, số máy HC12E5623335, biển kiểm soát: 74C1-218.71 có trị giá 13.300.000 đồng.

Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 04/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đakrông truy tố bị cáo Lê Bá Q về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đakrông giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; tình tiết tăng nặng “Tái phạm” tại điểm h khoản 1 Điều 52; tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội thành khẩn khai báo” tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 đến 21tháng tù. Áp dụng quy định tại đoạn 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự buộc bị cáo Quốc phải chấp hình phạt 08 tháng tù của của Bản án hình sự số 01/2018/HSST ngày 09/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị và tổng hợp với hình phạt của bản án này, quyết định hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành Về phần trách nhiệm dân sự: Không đề nghị xem xét.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 thanh kim loại hình chữ (T); 01 khẩu trang bằng vải màu xám; 01 chùm chìa khóa có gắn 03 chìa khóa; 01 mũ bảo hiểm màu đen đã qua sử dụng; 01 áo mưa màu xanh đã qua sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo Q đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như trong hồ sơ thể hiện và người bào chữa cho bị cáo nhất trí với tội danh Viện kiểm sát nhân dân huyện Đakrông đã truy tố và các điều luật đại diện viện kiểm sát đề nghị áp dụng và đề nghị HĐXX áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm h khoản1 Điều 51 Bộ luật hình sự “ Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Điều tra viên và Kiểm sát viên huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của bộ luật tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, có đủ căn cứ xác định: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của bị hại, người tham gia tố tụng khác và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 01 giờ, Ngày 20/10/2018, Lê Bá Q lợi dụng đêm khuya, mọi người đã đi ngủ, lén lút mở cổng vào nhà bà Hồ Thị B ở thôn V, xã Đa, huyện Đ chiếm đoạt 01 xe mô tô HONDA Wave alpha, màu sơn đỏ đen bạc, số khung 1218DY623296, số máy HC12E5623335, biển kiểm soát: 74C1-218.71.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 40/KL-GĐ ngày 23/10/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đakrông kết luận: Xe mô tô HONDA Wave alpha, màu sơn đỏ đen bạc, số khung 1218DY623296, số máy HC12E5623335, biển kiểm soát: 74C1-218.71 có giá trị 13.300.000 đồng.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, nên đã đủ các yếu tố cầu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ….thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đakrông truy tố bị cáo Lê Bá Quốc phạm tội ”Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị cáo Lê Bá Q là thanh niên có sức khỏe, đủ khả năng nhận thức pháp luật và hành vi của mình nhưng do lười lao động, muốn có tiền tiêu xài nên đã một lần lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 08 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng, tính từ ngày 09/01/2018. Chấp hành hình phạt chưa hết thời gian thử thách, ngày 20/10/2018 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô HONDA Wave alpha, biển kiểm soát: 74C1-218.71, có giá trị 13.300.000 đồng thuộc sở hữu của anh Hồ Văn Đ nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm mất trật tự trị an trên địa bàn, làm cho người dân luôn lo lắng. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù, xử phạt bị cáo một mức án nghiêm tương ứng với hành vi, tính chất phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để rèn luyện, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội và có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo Q sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Đi với đề nghị của người bào chữa áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm h khoản1 Điều 51 Bộ luật hình sư “ Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” là không có căn cứ vì tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 13.300.000đ đối với gia đình anh Đ là tài sản có giá trị lớn và là phương tiện làm ăn, sau khi chiếm đoạt bị cáo chạy xe về hướng Đông Hà nhưng hết xăng không đi tiếp được, phải để xe lại bên đường là ngoài ý muốn của bị cáo, người bào chữa cho rằng bị cáo bỏ lại xe nên chưa gây thiệt hại là không có căn cứ, HĐXX không chấp nhận.

Mt khác bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản xe mô tô HONDA Wave alpha, biển kiểm soát: 74C1 -218.71 trong thời gian thử thách chấp hành hình phạt của Bản án hình sự số 01/2018/HSST ngày 09/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xử phạt bị cáo 08 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng tính từ ngày tuyên án 09/01/2018, nên cần áp dụng quy định tại đoạn 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự buộc bị cáo Q phải chấp hình phạt 08 tháng tù của của Bản án hình sự số 01/2018/HSST ngày 09/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị và tổng hợp với hình phạt của bản án này, quyết định hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành, nhưng được trừ thời gian bắt tạm giam từ ngày 06/10/2017 đến ngày 21/12/2017.

[4] Đối với hành vi của người có tên T là người giúp sức tìm kiếm, đưa dụng cụ phá khóa, chìa khóa để mở khóa điện xe mô tô Wave màu đỏ đen bạc, biển kiểm soát 74C1-218.71 và dùng xe mô tô của mình chở Q đi tìm xe máy để lấy trộm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đakrông đã tiến hành các biện pháp điều tra, xác minh nhưng không có kết quả. Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét trong vụ án này, khi nào có kết quả thì xử lý sau.

[5] Đối với số điện thoại 0946764445 bị cáo khai của người tên T, qua xác minh được đăng ký từ số chứng minh nhân dân của chị Lê Thị Tuyết N, sinh năm 2003 ở khóm 3B, thị trấn K, huyện H, nhưng N không cho ai mượn giấy chứng minh và không biết số điện thoại trên là của ai và xe mô tô HONDA Wave alpha biển kiểm soát 74 H4 – 5767 do bị cáo khai, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đakrông xác minh là xe mô tô nhãn hiệu ATTILA, chủ sở hữa là chị Lê Khánh L ở khu phố 9, phường 5, thành phố Đ không liên quan đến vụ án, không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại gia đoạn điều tra cơ quan Công an huyện Đakrông đã xử lý vật chứng trả cho anh Hồ Văn Đ xe mô tô biển kiểm soát 74C1-218.71, anh Đ không có yêu cầu gì thêm, HĐXX không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra tạm giữ vật chứng gồm: 01thanh kim loại hình chữ (T); 01 khẩu trang bằng vải màu xám; 01 chùm chìa khóa có gắn 03 chìa khóa; 01 mũ bảo hiểm màu đen đã qua sử dụng; 01áo mưa màu xanh đã qua sử dụng không có giá trị sử dụng. Cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 của nghị quyết số 236/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm a khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm a khoản 1 Điều 55, khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Bá Q (tên gọi khác T) phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Xử phạt bị cáo 15 (Mười lăm) tháng tù Tổng hợp hình phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 01/2018/HSST ngày 09/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị với hình phạt 15 tháng tù của bản án này buộc bị cáo Q phải chấp hành hình phạt chung là 23 (Hai mươi ba) tháng tù, nhưng được trừ thời gian bắt tạm giam từ ngày 06/10/2017 đến ngày 21/12/2017. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 20/10/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 thanh kim loại hình chữ (T); 01 khẩu trang bằng vải màu xám; 01 chùm chìa khóa có gắn 03 chìa khóa; 01 mũ bảo hiểm màu đen đã qua sử dụng; 01 áo mưa màu xanh đã qua sử dụng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/01/2019 giữa Công an huyện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đakrông.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đa Krông - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về