Bản án 01/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẠ HÒA, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 22 tháng 01 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩmthụ lý số:05/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Trần Văn M, sinh ngày 01/8/1968, tại: huyện H, tỉnh Phú Thọ; Nơi đăng ký HKTT: Khu 9, xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Thọ;Nghề nghiệp: Làm ruộng;Trình độ học vấn: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn S, sinh năm 1929 và bà Hoàng Thị T, sinh năm1942; Có vợ:Nguyễn Thị T1, sinh năm 1984; Con: Có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; 

Nhân thân: Tại Bản án số 37/2015/HSST ngày 16/9/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa xử phạt 21 tháng cải tạo không giam giữ về tội đánh bạc, đã chấp hành xong ngày 30/01/2017. Đương nhiên được xóa án tích.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 16/12/2018 đến ngày 19/12/2018, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Thọ; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Đỗ Quang T2, sinh năm 1968, ở khu 6, xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Thọ; Vắng mặt.

2. Nguyễn Khánh P, sinh năm 1996, ở khu 2, xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Thọ; Vắng mặt.

3. Vũ Văn H1, sinh năm 1999, ở khu 4, xã H2, huyện H tỉnh Phú Thọ; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ - KSĐT ngày 04 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ đã truy tố bị cáo Trần Văn M về tội “Đánh bạc”theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự do trên cơ sở điều tra xác định được:

Hồi 17 giờ 45 phút ngày 16/12/2018, tại nhà ở của Trần Văn M, sinh năm 1968, ở khu 9, xã Đ, huyện H, đội CSHS Công an huyện Hạ Hòa phát hiện bắt quả tang M đang có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức bán số lô, số đề cho 03 đối tượng là Đỗ Quang T2, sinh năm 1968, ở khu 6 xã Đ, huyện H, Nguyễn Khánh P, sinh năm 1996, ở khu 2 xã Đ, huyện H và Vũ Văn H1, sinh năm 1999, ở khu 4 xã H1, huyện H2. M đã bán cho T2 các số lô, số đề với tổng số tiền là 50.000 đồng, bán cho P các số lô, số đề với tổng số tiền 3.760.000 đồng và bán cho H1 các số lô, số đề với tổng số tiền 1.680.000 đồng. Thu giữ 02 mảnh giấy (cáp đề) có ghi các số lô, số đề, 01 bút bi nhãn hiệu Thiên Long và số tiền 5.780.000.

Tổng số tiền các đối tượng trên dùng vào việc đánh bạc trong ngày 16/12/2018 được xác định là 5.490.000 đồng. Số tiền 290.000 đồng là số tiền của M dùng để chi tiêu cá nhân. 01 chiếc bút bi nhãn hiệu Thiên Long; 02 cáp đề là công cụ thực hiện hành vi phạm tội.

Tại Cơ quan CSĐT M đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Lời khai của M phù hợp với lời khai của các đối tượng có liên quan, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu điều tra có trong hồ sơ.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự, xử phạt: Trần Văn M từ 27 đến 30 tháng cải tạo không giam giữ, khấu trừ 03 ngày tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”;Phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Văn M từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng. Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Trần Văn M; 

Áp dụng khoản 1 Điều 47, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu để sung quỹ nhà nước đối với số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc đã bị thu giữ là 5.490.000 đồng.

Trả lại cho Trần Văn M 290.000 đồng là tiền chi tiêu cá nhân của M nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Lưu hồ sơ 02 cáp đề (đã thu giữ của Trần Văn M, bút lục số 84, 85). Tịch thu để tiêu hủy 01 bút bi màu xanh, nhãn hiệu Thiên Long.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn M đã khai nhận hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức mua bán số lô, số đề như cáo trạng đã nêu. Tổng số tiền đánh bạc bị cáo M phải chịu trách nhiệm là 5.490.000 đồng.

Lời nói sau cùng các bị cáo Trần Văn M thừa nhận hành vi bán số lô, số đề của mình là vi phạm pháp luật hình sự, bản thân bị cáo thấy ăn năn, hối cải. Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, vợ của bị cáo thường xuyên ốm đau, bệnh tật, bị cáo phải nuôi con nhỏ. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên tòa.

Hành vi của bị cáoTrần Văn M là nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo hoàn toàn ý thức được hành vi đó là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi đánh bạc, số tiền đánh bạc 5.490.000 đồng, xâm phạm đến trật tự công cộng.

Tính chất hành vi của bị cáo là ít nghiêm trọng.

Vì vậy có cơ sở và căn cứ pháp lý kết luận bị cáo phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự.Viện kiểm sát nhân dân huyện Hạ Hòa truy tố bị cáo về tội danh cũng như điều luật áp dụng là đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[2] Xét về nhân thân bị cáo không có tiền án, không có tiền sự nhưng có lịch sử bản thân đã 01 lần phạm tội đánh bạc, đương nhiên được xóa án tích.

Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự vì bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Với các tình tiết nêu trên áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung hình phạt tiền đối với bị cáo Trần Văn M là phù hợp.

Hoàn cảnh bị cáo có tài sản nhưngbị cáo phải nuôi con nhỏ, bị cáo làm ruộng có thu nhập thấp vì vậy miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo là phù hợp.

Các đối tượng Đỗ Quang T2, Nguyễn Khánh P, Vũ Văn H1 đánh bạc với bị cáo M đều có số tiền dưới 5.000.000 đồng và không có tình tiết định tội khác nên Công an huyện Hạ Hòa đã ra Quyết định xử phạt hành chính là phù hợp với pháp luật.

[3] Về vấn đề dân sự và xử lý vật chứng của vụ án: Số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc đã bị thu giữ là 5.490.000 đồng được tịch thu để sung quỹ nhà nước.

Trả lại cho Trần Văn M 290.000 đồng là tiền chi tiêu cá nhân của M nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Lưu hồ sơ 02cáp đề (đã thu giữ của Trần Văn M, bút lục số 84, 85). 01 bút bi màu xanh, nhãn hiệu Thiên Long là công cụ, phương tiện phạm tội được tịch thu để tiêu hủy.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vàokhoản 1, 3 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn M phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn M 30 (Ba mươi) tháng cải tạo không giam giữ, được khấu trừ 03 (ba) ngày tạm giữ bằng 09(chín) ngày cải tạo không giam giữ.

Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát giáo dục bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Trần Văn M cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H1, tỉnh Phú Thọ để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục người đó.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Văn M 10.000.000 đồng. Thời hạn nộp phạt là một lần kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Trần Văn M.

Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Trần Văn M.

2. Về vấn đề dân sự và xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47của Bộ luật hình sự; khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu để sung quỹ nhà nước đối với số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc đã bị thu giữ là 5.490.000 đồng.

Trả lại cho Trần Văn M 290.000 đồng là tiền chi tiêu cá nhân của M nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu để tiêu hủy 01 bút bi màu xanh, nhãn hiệu Thiên Long. (Vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ ngày 07/01/2019).

Lưu hồ sơ 02 cáp đề (đã thu giữ của Trần Văn M, bút lục số 84, 85).

3 . Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm akhoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016.

Bị cáo Trần Văn M phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

435
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hạ Hoà - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về