Bản án 01/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 15/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai lưu động vụ án hình sự thụ lý số: 01/2018/TLST- HS ngày 04 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo: Họ và tên: Chu Đình Y; tên gọi khác: Không; Sinh ngày 08/10/1988, tại: Xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Thôn 2, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Đình K, sinh năm 1956 (đã chết) và con bà Lê Thị N, sinh năm 1965; chưa có vợ, con; tiền sự: Không, tiền án: Không; nhân thân: Chưa lần nào bị xử lý vi phạm hành chính, bị xét xử một lần tại bản án số: 326/2012/HSST ngày 29/5/2012 bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội Tuyênên phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị bắt tạm giữ từ ngày 02/10/2018, tạm giam ngày 05/10/2018 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ, ngày 01/10/2018, bị cáo Chu Đình Y một mình đi bộ từ thị trấn T, huyện T đến xã Q để tìm mua Heroine sử dụng. Khi đi đến xã Q, huyện T, bị cáo vào nhà của một người đàn ông không rõ địa chỉ, tên, tuổi; gặp người đàn ông đó bị cáo chủ động nói “Anh có Heroine không, bán cho em một ít?”, người đàn ông hỏi “Mua bao nhiêu?”, bị cáo trả lời “Bán cho em hai trăm hai mươi nghìn đồng”, sau đó bị cáo đưa 220.000đ cho người đàn ông đó, nhận tiền xong người đàn ông đưa cho bị cáo 01 gói Heroine được gói bằng túi nilon màu xanh. Việc trao đổi mua bán Heroine lúc đó chỉ có bị cáo và người đàn ông biết với nhau, ngoài ra không có ai biết tham gia cùng. Sau khi mua được Heroine, bị cáo đi ra hướng thị trấn T, trên đường đi bị cáo đã cấu một ít Heroine để sử dụng bằng hình thức “chích”. Số Heroine còn lại bị cáo chưa kịp sử dụng hết thì đến 13 giờ 20 phút ngày 02/10/2018 bị tổ công tác Công an xã Q, huyện T bắt quả tang, thu giữ 01 gói Heroine có khối lượng 0,42 gam.

Tại bản Kết luận giám định số: 02/GĐ-PC09 ngày 16/10/2018 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của bị cáo Chu Đình Y gửi giám định là ma tuý: Loại Heroine. Khối lượng vật chứng thu giữ của bị cáo Chu Đình Y là 0,42 gam”.

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo Chu Đình Y khai nhận: Ngày 01/10/2018 bị cáo mua 01 gói Heroine với giá 220.000đ (hai trăm hai mươi nghìn đồng) của một người đàn ông tại xã Q về nhằm mục đích để sử dụng. Sau khi mua được Heroine bị cáo đã cấu một ít Heroine để sử dụng bằng hình thức “chích”. Đến 13 giờ 20 phút ngày 02/10/2018 bị Công an xã Q thu giữ số Heroine còn lại có khối lượng 0,42 gam và tạm giữ 01 chiếc ví màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar cùng 40.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Tại bản Cáo trạng số: 01/CT-VKS-TG ngày 04 tháng 12 năm 2018, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Chu Đình Y về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,33 gam Heroine vật chứng còn lại thu giữ của bị cáo; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu đen đã qua sử dụng, 01 ví màu đen cũ và số tiền 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng) không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo đề nghị trả lại cho bị cáo. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

[2] Về hành vi của bị cáo: Ngày 01/10/2018 bị cáo Chu Đình Y mua 01 gói Heroine với giá 220.000đ (hai trăm hai mươi nghìn đồng) của một người đàn ông tại xã Q nhằm mục đích để sử dụng. Sau khi mua được Heroine bị cáo đã cấu một ít Heroine để sử dụng bằng hình thức “chích”. Số Heroine còn lại có khối lượng 0,42 gam vào 13 giờ 20 phút ngày 02/10/2018 đã bị Công an thu giữ. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Chu Đình Y phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp tiếp tay cho những người chuY mua bán trái phép các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguY nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện T nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo bị xử phạt tù 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy vào năm 2012, đến nay đã được xóa án tích. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo đã có thời gian cải tạo tại trại giam, lẽ ra phải lấy đó làm bài học sống tốt hơn, có ích cho gia đình và xã hội. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét thấy điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù và không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần chấp nhận.

[7] Đối với người đàn ông bị cáo khai đã bán Heroine cho bị cáo vào ngày 01/10/2018. Quá trình điều tra xét thấy khi mua bán Heroine, bị cáo không biết tên, địa chỉ của người đàn ông đó, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Tuần Giáo không có căn cứ để điều tra làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với 01 phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,33 gam Heroine còn lại thu giữ của bị cáo cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu đen đã qua sử dụng, 01 ví màu đen cũ và số tiền 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng) không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo, theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[9] Án phí: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Chu Đình Y phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Chu Đình Y 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 02/10/2018.

2. Căn cứ Điểm c Khoản 1, Khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điểm a Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,33 gam Heroine vật chứng còn lại thu giữ của bị cáo; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu đen đã qua sử dụng, 01 ví màu đen, cũ và số tiền 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng) theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

3. Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tuyênên án (15/01/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về