Bản án 01/2019/HS-ST ngày 10/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 10/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 96/2018/HSST ngày 11 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2018/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Thập Văn H, sinh ngày 05/5/1997, tại Ninh Thuận; Nơi cư trú: thôn L, xã N, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 04/12; Dân tộc: Chăm; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Bà Ni; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Thập Văn T, (chết) và bà Kiều Thị Kim Th, sinh năm 1975; Gia đình bị cáo có 02 anh, em và bị cáo là con út trong gia đình; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 12/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu xử phạt 2 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 31/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 30/12/2017.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/7/2018 (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị Kim H1, sinh năm 1969.

Đa chỉ: 165 ấp A, xã P, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

2. Chị Nguyễn Thị Kim Ng, sinh năm 1975.

Đa chỉ: khu phố 2, phường D, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

Người làm chứng:

1. Anh Ngô Châu T1, sinh năm 1980.

Đa chỉ: tổ 11, khu phố 11, phường P1, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

2. Chị Trương Thị Thanh Th1, sinh năm 1997.

Đa chỉ: ấp 5, xã T, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ ngày 31/7/2018, Công an huyện Vĩnh Cửu phối hợp Công an xã Th2 tuần tra tại khu vực cổng trường Trung cấp nghề Đông Nam Bộ thuộc ấp Ô, xã Th2 phát hiện Thập Văn H, sinh năm 1997 vứt 01 bịch nilon có chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma tuý đá) xuống đất. Lực lượng chức năng đã tiến hành thu giữ và mời đối tượng về trụ sở Công an làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Thập Văn H khai nhận chất tinh thể màu trắng trong bịch nilon mà H vứt xuống đất là ma tuý đá.

Tang vật thu giữ:

-Thu giữ dưới đất nơi Thập Văn H đang đứng 01 bịch nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng được hàn kín (H khai đó là ma túy dạng đá).

-01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202-2 màu xanh.

-01 xe mô tô hiệu SH Mode biển số: 59Y3-203.30. Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim Ng là chủ sở hữu.

Tại Bản kết luận giám định số: 407/PC54-GĐMT ngày 07/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,4924 gam, loại: Methamphetamine.

Hoàn lại mẫu vật sau khi giám định có khối lượng: 0,4190 gam (được niêm phong theo quy định).

Quá trình điều tra các đối tượng khai nhận:

Thập Văn H khai: Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 31/7/2018, H đang ờ nhà trọ tại khu phố 3, phường D, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì Ngô Châu T1 (tên gọi khác: Đức), sinh năm 1982, ngụ khu phố 11, phường Ph1, thành phố Biên Hòa điện thoại cho H nhờ mua 500.000 đồng tiền ma túy đá để sử dụng. H đồng ý và hẹn gặp T giao ma tuý tại cổng trường Trung cấp nghề Đông Nam Bộ thuộc ấp Ô, xã Th2. H nhờ Nguyễn Thị Kim Ng, sinh năm 1975 ngụ ấp A, xã P, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh (là người cùng trọ với H) mua giúp 500.000 đồng ma túy. Sau đó H mượn xe mô tô hiệu SH Mode biển số: 59Y3-203.30 của Ng chở bạn gái là Trương Thị Thanh Th1 đi xin việc làm. Tiếp đó H chở Th1 đến trước cổng trường Trung cấp nghề Đông Nam Bộ gặp T1 để giao ma túy. Đến điểm hẹn, chưa kịp đưa ma túy cho T1 thì H phát hiện lực lượng Công an nên đã vứt gói ma túy đá xuống đất.

Sau khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Thập Văn H thay đổi lời khai xác định vào ngày 30/7/2018, H mua ma túy của một đối tượng không rõ lai lịch tại cây xăng Đ trên đường Đồng Khởi đoạn giáp ranh giữa thành phố Biên Hòa với huyện Vĩnh Cửu để sử dụng cá nhân. Ngày 31/7/2018, H mang túy theo người đến gặp anh T1 để hỏi việc nhờ anh T1 xin việc cho H trước đó. Mục đích mang theo ma túy của H là khi nào cần sẽ sử dụng. Giữa H và anh T1 hoàn toàn không có việc nhờ mua ma túy và số ma túy H ném xuống đất là của H mang theo để sử dụng.

Anh Ngô Châu T1 khai: Do biết H có bán ma tuý từ trước nên khoảng 8 giờ 30 phút ngày 31/7/2018, T1 gọi điện thoại cho H để mua ma tuý. H đồng ý và hẹn gặp tại cổng trường Trung cấp nghề Đông Nam Bộ để giao ma tuý. Sau đó T1 đến điểm hẹn chờ H, khi H đến có chở theo Trương Thị Thanh Th1. H chưa kịp giao ma tuý cho T1 thì thấy lực lượng Công an nên H vứt bịch ma tuý xuống đất.

Sau khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã tiến hành mời anh Ngô Châu T1 để làm rõ lời khai nhận của Thập Văn H nhưng anh T1 không còn ở địa phương, đi đâu không rõ nên không thể tiến hành đối chất giữa anh T1 với Thập Văn H.

Chị Trương Thị Thanh Th1 khai: Khoảng 9 giờ ngày 31/7/2018, Th1 nhờ H chở đi nộp hồ sơ xin việc làm thì H đồng ý, H mượn xe mô tô biển số 59Y3-203.30 của Nguyễn Thị Kim Ng chở Th1 đi. Sau khi xong việc, H chở Th1 đến trước cổng trường Trung cấp nghề Đông Nam Bộ thì bị Công an bắt giữ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Th1 không biết việc H tàng trữ ma tuý trong người.

Chị Nguyễn Thị Kim Ng khai: Ngày 31/7/2018, Ng cho H mượn xe mô tô biển số 59Y3-203.30 để chở Th1 đi xin việc làm. Ng không mua ma túy giúp H và không biết gì về việc tàng trữ ma túy của H.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Thập Văn H xác định lời khai của bị cáo về việc bị cáo mua ma túy về để sử dụng là chính xác, hoàn toàn không có việc bị cáo mua ma túy giùm cho anh Ngô Châu T1 như lời khai trước đây. Khi bị cáo đến gặp anh T1 để nhờ xin việc thì bị lực lượng công an phát hiện việc đang tàng trữ ma túy. Số ma túy mà lực lượng công an thu giữ có khối lượng ma túy là 0,4924 gam, loại: Methamphetamine là của bị cáo. Việc truy tố của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu theo Cáo trạng và Công văn 619/CV-VKS ngày 11/12/2018 là đúng với hành vi của bị cáo. Bị cáo Thập Văn H không có ý kiến gì về Bản kết luận số 407/PC54-GĐMT ngày 07/8/2018 của Phòng khoa học hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Bn cáo trạng số 74/CT-VKSVC ngày 09/10/2018 và Công văn 619/CV-VKS ngày 11/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu truy tố bị cáo Thập Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Thập Văn H thừa nhận hành vi mua ma túy về sử dụng, khi thấy lực lượng công an kiểm tra thì ném ma túy xuống đất nên đã bị phát hiện lập biên bản, khối lượng ma túy là 0,4924 gam, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Thập Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Thập Văn H từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy trong gói ký hiệu số 407/PC54-GĐMT ngày 07/8/2018 có khối lượng 0,4190 gam.

Tch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202-2 màu xanh.

Buộc bị cáo chịu án phí theo quy định pháp luật;

Bị cáo Thập Văn H nói lời nói sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là trái pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trên cơ sở tài liệu chứng cứ và lời khai của người làm chứng có đủ cơ sở xác định: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 31/7/2018, tại khu vực cổng trường Trung cấp nghề Miền Đông Nam Bộ thuộc ấp Ô, xã Th2, huyện Vĩnh Cửu, lực lượng Công an huyện Vĩnh Cửu phát hiện Thập Văn H ném một gói 01 bịch nilon có chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma tuý đá) xuống đất. Tại Cơ quan điều tra, Thập Văn H khai nhận chất tinh thể màu trắng trong bịch nilon mà H vứt xuống đất là ma tuý đá. Số ma túy đá này là H mua của một đối tượng không rõ lai lịch tại cây xăng Đ trên đường Đồng Khởi đoạn giáp ranh giữa thành phố Biên Hòa với huyện Vĩnh Cửu với giá 500.000 đồng để sử dụng cá nhân. Khi H đang nói chuyện với anh Ngô Châu T1 về việc H nhờ anh T1 xin việc cho H, thì thấy lực lượng công an đi tuần tra. Do hoảng sợ nên H đã ném ma túy xuống đất. Số ma túy mà lực lượng Công an thu giữ là của bị cáo và không phải bị cáo mua giùm cho anh T1 như những lời khai trước đây. Vì anh Ngô Châu T1 không còn ở địa phương, đi đâu không rõ nên không thể tiến hành đối chất giữa bị cáo H với anh Ngô Châu T1. Tại Bản kết luận số 407/PC54-GĐMT ngày 07/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,4924 gam, loại: Methamphetamine.

Từ những chứng cứ, lời khai nhận có đủ căn cứ xác định hành vi của Thập Văn H đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý về các chất ma túy của Nhà nước, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, hiểu rất rõ tác hại của chất ma túy, là nguyên nhân và mầm móng lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, đồng thời cũng là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác nhưng bị cáo bất chấp quy định cấm của pháp luật vẫn cố ý phạm tội. Bị cáo có tiền án chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội là trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 nên cần có mức hình phạt thật nghiêm để răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo Thập Văn H có 01 tiền án, ngày 12/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu xử phạt 2 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 31/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 30/12/2017.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

-Bị cáo Thập Văn H có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.

-Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Thập Văn H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy gói ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định, đã được niêm phong số 407/PC54-GĐMT ngày 08/8/2018 có khối lượng 0,4190 gam.

Tch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202-2 màu xanh mà bị cáo H sử dụng vào việc phạm tội.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu truy tố bị cáo Thập Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Thập Văn H phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Thập Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Thập Văn H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/7/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy gói ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định, đã được niêm phong số 407/PC54-GĐMT ngày 08/8/2018 có khối lượng 0,4190 gam.

Tch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202-2 màu xanh.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu ngày 09/10/2018)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Luật phí và lệ phí năm 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 48 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Thập Văn H phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Thập Văn H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Kim H1, chị Nguyễn Thị Kim Ng vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 10/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về