Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 19/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 01/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 01 năm 2018 tại Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 204/2017/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2017 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1992, đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn X, xã Đ, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Tổ 3, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn N, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn X, xã Đ, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng; có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn (chị Vũ Thị H) trình bày: Chị và anh Hoàng Văn N tự nguyện kết hôn với nhau, đăng ký kết hôn ngày 23/3/2015 tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Anh chị sống hòa thuận đến cuối năm 2016 thì nảy sinh mâu thuẫn do không thống nhất được về nơi làm việc, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh N có những lời nói xúc phạm đến chị và gia đình chị. Do mâu thuẫn căng thẳng nên từ tháng 8 năm 2017 anh chị sống ly thân, không quan tâm nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ, chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh N.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Hoàng Tùng A, sinh ngày 09/01/2016. Trước đây con sống cùng chị H tại tỉnh Thái Bình nhưng từ tháng 8 năm 2017, anh N tự ý đón con về sống tại xã Đ, huyện Tiên Lãng. Chị H thăm con nhưng không được đón con về vì anh N và gia đình ngăn cản. Khi con ốm, phải điều trị tại bệnh viện, anh N cũng không thông báo cho chị H biết. Khi ly hôn, vì con còn quá nhỏ, chị H nhận nuôi con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho con. Anh chị không có tài sản và nợ chung.

Trong các lời khai tại Tòa án, bị đơn (anh Hoàng Văn N) trình bày: Những nội dung chị H khai về thời gian, điều kiện kết hôn, thời gian ly thân giữa anh chị là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn do chị H có những cư xử không đúng mực với anh và gia đình anh, vợ chồng không thống nhất được quan điểm về nơi ở và làm việc. Mâu thuẫn giữa anh chị trở lên trầm trọng từ tháng 7 năm 2017, anh N bị ốm phải điều trị tại bệnh viện nhưng chị H không quan tâm, chăm sóc. Tháng 8 năm 2017 anh N đón con về sống tại xã Đ, huyện Tiên Lãng, vợ chồng thường xuyên xung đột, cãi vã dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân, không quan tâm nhau. Anh đã cho chị H nhiều cơ hội sửa đổi để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị H không thực hiện. Anh không đồng ý ly hôn chị H vì mâu thuẫn vợ chồng không lớn, chủ yếu do chị H, nếu chị H thay đổi thì vợ chồng vẫn có thể đoàn tụ được. Anh N xác nhận anh chị có 01 con chung như chị H trình bày; nếu phải ly hôn, anh nhận nuôi con, không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con. Anh chị không có tài sản và nợ chung. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện, từ cuối năm 2016, vợ chồng anh N, chị H nảy sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm về việc lựa chọn nơi cư trú và làm việc, khi anh N bị ốm, phải điều trị tại bệnh viện, chị H cũng không về chăm sóc. Anh chị có một con chung là Hoàng Tùng A, trước đây cháu sống cùng chị H ở tỉnh Thái Bình, khoảng từ giữa năm 2017 anh N đón con về xã Đ, huyện Tiên Lãng sống, mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng. Tại phiên tòa, chị H khai đang làm việc tại Công ty TNHH YAZAKI Chi nhánh Thái Bình với mức lương ổn định, trung bình là 6.000.000 đồng một tháng nên chị đủ điều kiện trực tiếp nuôi con và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; anh N không thay đổi ý kiến.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Thẩm phán đã thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ,thông báo về việc thu thập được chứng cứ, mở phiên họp, hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định về thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục tố tụng; phiên toà được mở đúng thời hạn, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56, các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Hoàng Văn N; giao con Hoàng Tùng A, sinh ngày 09/01/2016 cho chị H trực tiếp nuôi đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; tạm hoãn việc cấp dưỡng cho con đối với anh N. Các đương sự cùng xác nhận không có tài sản và nợ chung nên không phải giải quyết. Buộc chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình (ly hôn, tranh chấp nuôi con) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Vũ Thị H và anh Hoàng Văn N được xác lập từ ngày 23/3/2015, là hôn nhân hợp pháp. Anh N không đồng ý ly hôn nhưng thừa nhận mâu thuẫn giữa anh chị đã trầm trọng, vợ chồng thường xuyên xung đột, cãi vã; từ tháng 8 năm 2017 đến nay, anh chị sống ly thân, không quan tâm nhau. Sự thừa nhận của anh N phù hợp với lời khai của chị H và các tài liệu xác minh tại địa phương, do đó, có đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa anh N, chị H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; yêu cầu ly hôn của chị H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên cần chấp nhận, xử cho chị H được ly hôn anh N.

Về con chung: Các đương sự đều xác nhận có 01 con chung là Hoàng Tùng A, sinh ngày 09/01/2016. Tính đến thời điểm giải quyết vụ án, con của anh chị chưa đủ 36 tháng tuổi, rất cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp của người mẹ; anh chị không thỏa thuận được với nhau về người trực tiếp nuôi con. Căn cứ khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, xử giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi. Về việc cấp dưỡng cho con: Vì chị H không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho con, tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, xét thấy quyền lợi của con vẫn được đảm bảo nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về tài sản và nợ chung: Các đương sự cùng xác nhận không có tài sản và nợ chung nên không phải giải quyết.

Về án phí: Chị Vũ Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sựCăn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị H, xử cho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Hoàng Văn N.

2. Về con chung: Chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi con Hoàng Tùng A, sinh ngày 09/01/2016 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Không giải quyết vấn đề cấp dưỡng cho con do đương sự không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở

3. Về án phí: Chị Vũ Thị H phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0011046 ngày 07 tháng 11 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng. Như vậy, chị H đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 19/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:01/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về