Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 03/01/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 01/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/01/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đ, tỉnh LĐ, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 467/2017/TLST-HNGĐ ngày 05/9/2017 về tranh chấp “Ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2017/QĐXXST-DS ngày 24/11/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Hoàng Y, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Số 170E, đường P, Phường B, thành phố Đ, tỉnh LĐ.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Quang V, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Số 06, đường T, Phường Q, thành phố Đ, tỉnh LĐ.

(Bà Y có mặt; ông V vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện,bản tự khai và trình bày tại phiên tòa của nguyên đơn:

Bà Nguyễn Hoàng Y và ông Nguyễn Hữu Quang V kết hôn vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường Q, thành phố Đ, tỉnh LĐ. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới; sau khi kết hôn vợ chồng cùng chung sống tại nhà bố mẹ chồng tại số 06, đường T, Phường Q, thành phố Đ, tỉnh LĐ. Thời gian vợ chồng chung sống hòa thuận chỉ được 06 tháng từ ngày cưới thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không có sự tôn trọng lẫn nhau, không có sự hòa hợp và cãi vả lẫn nhau làm cho cuộc sống chung trở nên căng thẳng. Nay bà Y xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể kéo dài cuộc sống chung nên yêu cầu ly hôn ông V.

Bị đơn ông Nguyễn Hữu Quang V trình bày:

Quá trình kết hôn và chung sống như lời bà Y đã trình bày là đúng. Về nguyên nhân mâu thuẫn thì ông V cũng thừa nhận rằng trong cuộc sống gia đình có nhiều mâu thuẫn, cùng không có mâu thuẫn nào lớn mà nhiều chuyện nhỏ phát sinh ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng. Hai bên cũng đã ngồi lại để tìm hướng giải quyết nhưng không có kết quả gì. Ông V cũng nhận thấy vợ chồng không thể tiếp tục chung sống nên đồng ý ly hôn theo yêu cầu của vợ.

Về con chung: Các bên xác nhận không có con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Các bên xác nhận không có tài sản chung và không có nợ chung.

Tòa án nhân dân thành phố Đ đã triệu tập hòa giải nhưng bị đơn không đến tòa để tham gia phiên hòa giải.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật; về nội dung giải quyết vụ án căn cứ Điều 262 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử, xử: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Hoàng Y xin ly hôn ông Nguyễn Hữu Quang V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố Đ ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2017/QĐXXST-DS ngày 24/11/2017; tiến hành tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng ông Nguyễn Hữu Quang V vẫn vắng mặt lần thứ hai mà không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan; vì vậy căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Đ vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy điều kiện và quá trình kết hôn như các đương sự trình bày là hợp pháp, phù hợp với quy định tại các Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không có sự tôn trọng lẫn nhau, không có sự hòa hợp và cải vả lẫn nhau làm cho cuộc sống chung trở nên căng thẳng; hiện nay hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau để cải thiện mối quan hệ vợ chồng; quá trình Tòa án thụ lý vụ án thì ông V cũng đồng ý ly hôn, không thể hiện mong muốn được đoàn tụ. Vì vậy việc vợ chồng bà Y không còn quan tâm đến nhau là đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; việc bà Y yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: các đương sự xác định không có nên không xét đến.

Về án phí: Buộc đương sự phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; các Điều 35, 39, 147, 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Hoàng Y về việc “Xin ly hôn” ông Nguyễn Hữu Quang V;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Hoàng Y được ly hôn ông Nguyễn Hữu Quang V.

2. Về án phí: Buộc bà Nguyễn Hoàng Y phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0001624 ngày 05/9/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị đơn vắng mặt, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án (hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 03/01/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:01/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về