Bản án 01/2017/HS-ST ngày 31/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 01/2017/HS-ST NGÀY 31/10/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31/10/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Phú Thọ tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2017/TLST-HS ngày 06/10/2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Văn H, sinh ngày 03/02/1980;

- ĐKHKTT và nơi ở: Khu 5, xã K, huyện L, tỉnh Phú Thọ;

- Nghề nghiệp: Làm ruộng; Văn hóa: 10/12;

- Bố đẻ: Phan Văn Th; Mẹ đẻ: Nghiêm Thị H

- Anh chị em ruột: Gia đình có 04 người, bị cáo là con thứ 03;

- Vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1981. Đăng ký hộ khẩu thường trú tại: khu 5, xã K, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Hiện sinh sống và làm việc tại tỉnh Đồng Nai;

- Con: 02 người con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2007.

- Tiền án, tiền sự: Không

Tiền sử: Tháng 03/2014, Ủy ban nhân dân huyện L áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện ma túy tại Trung tâm quản lý sau cai nghiện tỉnh Phú Thọ, thời gian 12 tháng.

- Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/7/2017. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện L, tỉnh Phú Thọ. (có mặt)

* Người bị hại: Ông Nguyễn Xuân H sinh năm 1965;

Trú tại: Khu 5, xã K, huyện L, tỉnh Phú Thọ. (có mặt)

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Phan Văn M, sinh năm 1977;

Trú tại: Khu 5, xã K, huyện L, tỉnh Phú Thọ. (có mặt)

2. Cháu Phan Văn D, sinh năm 2008 (vắng mặt);

Người đại diện cho cháu D: Anh Phan Ngọc B (bố đẻ cháu D);

Trú tại: Khu 5, xã K, huyện L, tỉnh Phú Thọ. (có mặt)

NHẬN THẤY

Quá trình điều tra xác định: Sáng ngày 09/7/2017, gia đình ông Nguyễn Xuân H, sinh năm 1965, ở khu 5, xã K, huyện L, tỉnh Phú Thọ đi vắng. Ông H là người rời khỏi nhà sau cùng để đi ra đồng làm ruộng. Khi đi, ông H không khóa cửa nhà ở, không khóa cổng. Tại sân nhà ông H có dựng 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651, chìa khóa xe vẫn cắm ở ổ khóa điện của xe vẫn chưa rút.

Khoảng 08 giờ sáng ngày 09/7/2017, Phan Văn H một mình đi bộ sang nhà người thân chơi. Khi đi đến đoạn đường bê tông trước cổng nhà ở của gia đình ông Nguyễn Xuân H, Phan Văn H quan sát thấy xe mô tô nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651 dựng trong sân nhà ông H, cửa cổng ra vào đang mở, không có ai ở trong nhà nên H đã nẩy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô trên để đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. H đi vào trong sân nhà ông H, nhìn thấy chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện của xe, H dắt chiếc xe ra ngoài cổng rồi ngồi lên xe, mở khóa điện, nổ máy và điều khiển xe đi theo hướng đường bê tông để ra quốc lộ 32C. Khi H điều khiển xe mô tô vừa trộm cắp được đi khoảng 100 mét thì bà Lại Thanh H và ông Lại Văn H phát hiện, tri hô. H nghe thấy tiếng tri hô, biết có người phát hiện hành vi trộm cắp tài sản của mình nhưng không dừng lại mà tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy. Cùng lúc này, ông H đang làm đồng gần nhà, nghe thấy tiếng ông Lại Văn H và bà H tri hô, ông H nhìn theo thấy bị cáo H đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651 của mình đi về hướng quốc lộ 32C nên cùng ông Lại Văn H dùng xe mô tô của ông dồn đuổi theo H nhưng không đuổi kịp.

Sau khi trộm cắp được chiếc xe máy trên, H điều khiển xe đi đến nhà bạn là Lưu Minh Đ ở tổ 46, khu L, phường M, thành phố V. H nhờ Đ tìm chỗ để cầm cố chiếc xe lấy tiền tiêu xài. Đ hỏi H về nguồn gốc chiếc xe, H trả lời đây là xe của H nhưng H quên không mang giấy tờ xe theo. Đ đồng ý đưa H đi cầm cố xe, Đ và H dùng chiếc xe nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651 đi đến nhà ông Đỗ Văn H, ở thôn M, xã B, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc để cầm cố xe vay tiền. Tại nhà H, bị cáo H nói với H chiếc xe trên là của H, H quên không mang theo giấy tờ. Bị cáo H và H thỏa thuận: H cho bị cáo H vay số tiền: 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) và bị cáo H để lại chiếc xe nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651 chỗ H làm tin. Hẹn một tuần sau H trả tiền đã vay, H sẽ giao lại xe mô tô này cho bị cáo H. Sau đó, bị cáo H và Đ bắt xe khách đi về thành phố V. Số tiền 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) H có được do cầm cố xe H đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 10/7/2017, Phan Văn H sử dụng điện thoại di động liên lạc, nói cho anh trai ruột là Phan Văn M về việc đã trộm cắp và đang cầm cố xe mô tô của ông Nguyễn Xuân H tại nhà của Đỗ Văn H. Anh Phan Văn M đã cùng ông Nguyễn Xuân H đến, gặp Đỗ Văn H trả tiền và chuộc lại xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651, chiếc xe này ông H đã giao nộp cho cơ quan Điều tra.

Ngày 14/7/2017, Phan Văn H đã đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đầu thú.

Ngày 14/7/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra Quyết định số 57 trưng cầu định giá tài sản mà Phan Văn H đã trộm cắp. Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 52 ngày 14/7/2017, Hội đồng định giá tài sản xác định: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM - ANGEL, màu sơn: Ghi, biển số 19H9 - 0651; số khung: EKCG013ME010197, số máy: VMEVA2010197; xe cũ đã qua sử dụng. Giá trị thiệt hại: 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng). Ngày 20/7/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam đối với Phan Văn H về tội “trộm cắp tài sản”, quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự.

Ngày 11/9/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 42, trao trả chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651 cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Xuân H. Ông H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác.

Tại cơ quan Điều tra Phan Văn H còn khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 07/7/2017 tại nhà mẹ đẻ là bà Nghiêm Thị H, H đã mượn chiếc xe đạp mini, nhãn hiệu HAOEX, khung xe sơn màu xanh, có mác tem dán màu đỏ của cháu Phan Văn D, sinh năm 2008, con anh Phan Ngọc B. Cháu D có hỏi bà H về việc có nên cho bị cáo H mượn xe đạp không, bà H nói với D cho chú H mượn. H sử dụng xe đạp của cháu D đi mua thẻ điện thoại. Trên đường đi, do không có tiền tiêu xài, Phan Văn H đã bán chiếc xe đạp này cho một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ lấy số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Cơ quan điều tra đã ra Quyết định số 40 - 28/8/2017 trưng cầu định giá chiếc xe đạp trên. Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 46 - 29/8/2017, Hội đồng định giá tài sản định giá: 01 (một) chiếc xe đạp không rõ nhãn hiệu, màu đỏ đen. Xe đã qua sử dụng. Giá trị thiệt hại: 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Công an huyện L đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này của Phan Văn H.

Trách nhiệm dân sự: Đối với Lưu Minh Đ, người đã cùng Phan Văn H đi cầm cố và Đỗ Văn H, người nhận cầm cố chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651. Đ và H đều không biết xe mô tô này do bị cáo H trộm cắp mà có. Do đó Cơ quan điều tra không đề cập xem xét trách nhiệm hình sự là phù hợp.

Đối với số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm triệu đồng) anh Phan Văn M vay của ông Nguyễn Xuân H để đi lấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651 do Phan Văn H trộm cắp để trả lại cho ông Nguyễn Xuân H. Ông H không yêu cầu M phải trả lại số tiền trên nên không đặt ra xem xét là phù hợp.

Tại bản cáo trạng số 56/KSĐT-TA ngày 06/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố Phan Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 - Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố của bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phan Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1- Điều 138; Điểm h, p - Khoản 1,2 - Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phan Văn H từ 09 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2017.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Khoản 2 - Điều 41 BLHS; Điểm b - Khoản 2 - Điều 76 BLTTHS.

Xác nhận cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện L trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu SYM - ANGEL màu sơn ghi, biển kiểm soát: 19 H9 - 0651 cho ông H là chủ sở hữu hợp pháp.

Căn cứ Khoản 1,2 - Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ s xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo, của người bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng 8 giờ 00 phút ngày 09/7/2017, Phan Văn H, sinh năm 1980, ở khu 5, xã K, huyện L, tỉnh Phú Thọ đã có hành vi trộm cắp của ông Nguyễn Xuân H 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651 trị giá là 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng).

Lời khai nhân của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, phù hợp với thời gian, địa điểm nơi xảy ra tội phạm; chứng cứ và tài liệu mà cơ quan Điều tra đã thu thập được có lưu trong hồ sơ vụ án. Ngoài lời khai nhân trên bị cáo Phan Văn H không đưa ra được lời bào chữa nào khác.

Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý và là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy đã có đủ cơ sở khẳng định: Bị cáo Phan Văn H đã thực hiện hành vi phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 - Điều 138 của Bộ luật hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc loại tội ít nghiêm trọng. Bị cáo hễ có cơ hội là thực hiện hành vi trộm cắp để có tiền tiêu xài. Hành vi bị cáo thực hiện đã xâm phạm tới tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã hội.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm h, p - Khoản 1 - Điều 46 của Bộ luật hình sự đó là: bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra bị cáo còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 - Điều 46 của BLHS đó là bị cáo đầu thú và tại phiên tòa người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tuy có tài sản là nhà, đất nhưng là tài sản chung của vợ chồng, trong khi đó vợ bị cáo không sinh sống tại địa phương mà đi lao động tự do ở tỉnh Đồng Nai, con thì đang do bà nội chăm sóc tại nhà đất này nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

Xử lý vật chứng: Ngày 11/9/2017 Công an huyện L đã trả cho ông Nguyễn Xuân H chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651 và ông H không có yêu cầu bồi thường gì khác. Do đó cần xác nhận cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện L trả tài sản trên cho ông H là chủ sở hữu hợp pháp.

Ngoài ra tại cơ quan Điều tra bị cáo H khai: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 07/7/2017 tại nhà mẹ đẻ là bà Nghiêm Thị H, bị cáo H đã mượn chiếc xe đạp mini, nhãn hiệu HAOEX, khung xe sơn màu xanh, có mác tem dán màu đỏ của cháu Phan Văn D, sinh năm 2008, con anh Phan Ngọc B. Cháu D có hỏi bà H về việc có nên cho H mượn xe đạp không, bà H nói với D cho chú H mượn. H sử dụng xe đạp của cháu D đi mua thẻ điện thoại. Trên đường đi, do không có tiền tiêu xài, Phan Văn H đã bán chiếc xe đạp này cho một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ lấy số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Cơ quan điều tra đã ra Quyết định số 40 - 28/8/2017 trưng cầu định giá chiếc xe đạp trên. Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 46 - 29/8/2017, Hội đồng định giá tài sản định giá: 01 (một) chiếc xe đạp không rõ nhãn hiệu, màu đỏ đen. Xe đã qua sử dụng. Giá trị thiệt hại: 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Công an huyện L đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này của Phan Văn H là phù hợp với pháp luật. Anh B không yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho cháu D giá trị thiệt hại là chiếc xe đạp nên không đặt ra xem xét là phù hợp.

Đối với Lưu Minh Đ, người đã cùng Phan Văn H đi cầm cố và Đỗ Văn H, người nhận cầm cố chiếc xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651. Đ và H đều không biết xe mô tô này do bị cáo H trộm cắp mà có. Do đó Cơ quan điều tra không đề cập xem xét trách nhiệm hình sự là phù hợp.

Đối với số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm triệu đồng) anh Phan Văn M vay của ông Nguyễn Xuân H để đi lấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM - ANGEL, sơn màu ghi, biển số 19H9 - 0651 do Phan Văn H trộm cắp để trả lại cho ông Nguyễn Xuân H. Anh M đã trả lại số tiền trên cho ông H và không yêu cầu bị cáo phải trả cho anh M số tiền nên không đặt ra xem xét là phù hợp

Về án phí: Buộc bị cáo Phan Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1- Điều 138; Điểm h, p - Khoản 1,2 - Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phan Văn H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2017.

Hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Áp dụng: Khoản 2 - Điều 41 BLHS; Điểm b - Khoản 2 - Điều 76 BLTTHS.

Xác nhận ngày 11/9/2017 cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện L trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu SYM - ANGEL màu sơn ghi, biển kiểm soát: 19 H9 - 0651 cho ông H là chủ sở hữu hợp pháp.

Về án phí: Áp dụng Khoản 1,2 - Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a - Khoản 1 - Điều 23 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phan Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; đại diện cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2017/HS-ST ngày 31/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lập - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về