Bản 44/2020/DS-ST ngày 20/11/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIÁ RAI, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN 44/2020/DS-ST NGÀY 20/11/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 206/2020/TLST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2020 về tranh chấp “hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2020/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 10 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 54/2020/QĐST-DS ngày 03/11/2020.

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T.

Địa chỉ: Số 266-268 N, Phường 8, Quận 3, Thành phố H.

Ngưi đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D - Chức vụ: Tổng Giám đốc.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của bà Diễm: Ông Nguyễn Chí T - Chức vụ: Giám đốc Chi nhánh Bạc Liêu (Theo văn bản ủy quyền số 3974/2019/GUQ-PL ngày 16/12/2019).

Ngưi đại diện theo ủy quyền của ông Trung: Ông Hà Hán M - Chức vụ: Phó Phòng giao dịch G (Theo văn bản ủy quyền số 509/2020/GUQ-VNBL ngày 08/5/2020 - có mặt).

- Bị đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1983 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp K, xã T, thị xã G, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 17 tháng 7 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T trình bày:

Ngày 07 tháng 6 năm 2019 bà Lê Thị T có ký hợp đồng tín dụng số LD1915800117 với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T – Phòng giao dịch Giá Rai, Bạc Liêu để vay số tiền là 30.000.000 đồng, mục đích vay là mua sắm vật dụng gia đình, thời hạn vay là 18 tháng, thời điểm trả hết nợ là ngày 07 tháng 12 năm 2020. Lãi suất để tính số vốn và lãi định kỳ mà bên được cấp tín dụng phải trả cho Sacombank là 21%/năm, tương ứng với lãi suất thực tế của khoản vay được ấn định theo quy định tại hợp đồng này. Lãi suất này đã được các bên thỏa thuận và phù hợp với quy định của pháp luật. Lãi suất này chỉ áp dụng cho lần giải ngân đầu tiên, các lần giải ngân sau (nếu có), lãi suất được xác định theo thỏa thuận của các bên tại thời điểm giải ngân, phù hợp với quy định của pháp luật và được ghi cụ thể trên từng giấy nhận nợ, tương đương lãi suất thực tế giảm dần 40,93%/năm. Cho vay tín chấp không có tài sản bảo đảm.

Trong quá trình vay, từ khi giải ngân ngày 07 tháng 6 năm 2019 đến ngày 11 tháng 10 năm 2019 bà Tú đã thanh toán được cho Ngân hàng tổng số tiền vốn lãi là 6.632.078 đồng (trong đó tiền vốn là 4.998.000 đồng và tiền lãi là 1.634.078 đồng). Kể từ ngày 11/10/2019 bà Tú không thực hiện việc trả nợ cho Ngân hàng. Do bà Tú đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay nên Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn kể từ ngày 11/10/2019. Tính đến ngày 20 tháng 11 năm 2020 bà Tú còn nợ Ngân hàng tổng số tiền vốn lãi là 44.211.000 đồng (trong đó vốn là 25.002.000 đồng, lãi trong hạn là 13.560.156 đồng, lãi quá hạn là 5.648.844 đồng).

Nay Ngân hàng yêu cầu bà Lê Thị T có trách nhiệm trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ theo Hợp đồng tín dụng đến ngày 20 tháng 11 năm 2020 số tiền vốn lãi là 44.211.000 đồng (trong đó vốn là 25.002.000 đồng, lãi trong hạn là 13.560.156 đồng, lãi quá hạn là 5.648.844 đồng) và tiền lãi phát sinh kể từ ngày 20/11/2020 cho đến khi bà Tú trả hết nợ.

Bị đơn bà Lê Thị T:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc, phiên họp giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà Lê Thị T theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án thì Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, xác định đúng thẩm quyền, đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thực hiện đúng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, việc gửi các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát đầy đủ, đúng thời hạn. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Từ khi thụ lý đến khi xét xử nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 71 và 234 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bà Lê Thị T vắng mặt, Toà án nhân dân thị xã Giá Rai đã tiến hành niêm yết hợp lệ các thủ tục tố tụng dân sự cho bà Lê Thị T theo quy định nhưng bà Tú vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành niêm yết đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà Lê Thị T là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Nội dung vụ án:

Căn cứ vào các Điều 463, 466, 468, 470 Bộ luật dân sự: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T đối với bà Lê Thị T. Buộc bà Tú có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T khoản nợ gốc và nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm đến ngày 20 tháng 11 năm 2020 số tiền vốn lãi là 44.211.000 đồng (trong đó vốn là 25.002.000 đồng, lãi trong hạn là 13.560.156 đồng, lãi quá hạn là 5.648.844 đồng). Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bà Tú còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án; căn cứ vào ý kiến đương sự; quan điểm của đại diện Viện kiểm sát; sau khi thảo luận, nghị án; Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lê Thị T trả số nợ vay theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Bà Tú có địa chỉ tại ấp Khúc Tréo B, xã Tân Phong, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điêu 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.

[2] Xét xử vắng mặt đương sự: Do bị đơn bà Lê Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên Tòa án vẫn tiến hành xét vắng mặt bà Tú theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét hợp đồng tín dụng: Ngày 07 tháng 6 năm 2019 bà Lê Thị T có ký hợp đồng tín dụng số LD1915800117 với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T – Phòng giao dịch Giá Rai, Bạc Liêu để vay số tiền là 30.000.000 đồng, mục đích vay là mua sắm vật dụng gia đình, thời hạn vay là 18 tháng, thời điểm trả hết nợ là ngày 07 tháng 12 năm 2020. Lãi suất để tính số vốn và lãi định kỳ mà bên được cấp tín dụng phải trả cho Sacombank là 21%/năm, tương ứng với lãi suất thực tế của khoản vay được ấn định theo quy định tại hợp đồng này. Lãi suất này đã được các bên thỏa thuận và phù hợp với quy định của pháp luật. Lãi suất này chỉ áp dụng cho lần giải ngân đầu tiên, các lần giải ngân sau (nếu có), lãi suất được xác định theo thỏa thuận của các bên tại thời điểm giải ngân, phù hợp với quy định của pháp luật và được ghi cụ thể trên từng giấy nhận nợ, tương đương lãi suất thực tế giảm dần 40,93%/năm. Cho vay tín chấp không có tài sản bảo đảm.

[4] Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng, việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của Ngân hàng là phù hợp quy định pháp luật.

[5] Trong quá trình vay, từ khi giải ngân ngày 07 tháng 6 năm 2019 đến ngày 11 tháng 10 năm 2019 bà Tú đã thanh toán được cho Ngân hàng tổng số tiền vốn lãi là 6.632.078 đồng (trong đó tiền vốn là 4.998.000 đồng và tiền lãi là 1.634.078 đồng). Kể từ ngày 11/10/2019 bà Tú không thực hiện việc trả nợ cho Ngân hàng. Do bà Tú đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay nên Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn kể từ ngày 11/10/2019. Tính đến ngày 20 tháng 11 năm 2020 bà Tú còn nợ Ngân hàng tổng số tiền vốn lãi là 44.211.000 đồng (trong đó vốn là 25.002.000 đồng, lãi trong hạn là 13.560.156 đồng, lãi quá hạn là 5.648.844 đồng).

[6] Xét thấy hợp đồng tín dụng đã được ký kết đúng theo quy định pháp luật, yêu cầu trả tiền gốc, lãi của Ngân hàng là có căn cứ chấp nhận.

[7] Đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Vê án phí dân sự sơ thẩmcó giá ngạch: Bà Lê Thị T phải nộp án phí là 2.210.550 đồng. Ngân hàng Thương mại Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 463, 466, 468, 470 Bộ luật dân sự;

Căn cứ Khoản 2 Điều 91, Điều 95, điểm a khoản 3 Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng;

Điều 7, 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T đối với bà Lê Thị T.

2. Buộc bà Lê Thị T có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T khoản nợ tính đến ngày 20 tháng 11 năm 2020 tổng số tiền vốn lãi là 44.211.000 đồng (trong đó vốn là 25.002.000 đồng, lãi trong hạn là 13.560.156 đồng, lãi quá hạn là 5.648.844 đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi và tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng cho vay các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng vay theo quyết định của Tòa án cũng được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà Lê Thị T phải nộp 2.210.550 đồng. Ngân hàng không phải chịu án phí nên Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T được nhận lại số tiền 960.000 đồng theo biên lai số 0001920 ngày 10 tháng 8 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú cuối cùng.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản 44/2020/DS-ST ngày 20/11/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:44/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về