Bản 107/2020/DS-ST ngày 27/05/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

 BẢN 107/2020/DS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2020/TLST-DS ngày 06 tháng 01 năm 2020 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2020/QĐXX-ST ngày 24 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT Địa chỉ: Lầu 8, số 266 – 268 NKKN, Phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D, chức vụ: Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn G, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT chi nhánh Tiền Giang.

Người được ủy quyền lại: Anh Đào Văn V, sinh năm 1977, chức vụ: Trưởng phòng giao dịch Vĩnh Kim Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT – chi nhánh Tiền Giang (Theo Giấy ủy quyền số 4034/2018/GUQ-PL ngày 10/12/2018 và Giấy ủy quyền ngày 19/11/2019)

 - Bị đơn: Anh Hồ Nhựt D1 sinh năm 1978;

Địa chỉ: ấp VT, xã VK, huyện CT, tỉnh Tiền Giang. (anh V có mặt, anh D1 vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong Đơn khởi kiện, Bản tự khai ngày 19 tháng 11 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT trình bày:

Vào ngày 08/02/2017, anh Hồ Nhựt D1 gởi đề nghị cấp thẻ tín dụng theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng kèm theo Bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT (sau đây gọi tắt là Bản Điều khoản và điều kiện) và được Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) chấp nhận ngày 01/3/2017. Anh D1 được sử dụng thẻ tín dụng này lần đầu vào ngày 30/4/2017.

Theo hợp đồng đã ký kết: Anh D1 được Ngân hàng cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 10.000.000đồng, mục đích vay tiêu dùng cá nhân. Khi sử dụng thẻ tín dụng, Ngân hàng sẽ gởi Thông báo cho anh D1 biết dư nợ và số tiền phải thanh toán cho Ngân hàng theo định kỳ hàng tháng, thời hạn thanh toán vào ngày 25 hàng tháng, nếu không thanh toán hoặc thanh toán không hết dư nợ thì phải chịu thêm khoản lãi theo mức lãi suất 2,5%/tháng được tính trên tổng dư nợ, ngoài ra anh D1 còn phải chịu các khoản phí hàng năm (được thu mỗi năm một lần), phí thông báo 10.000đồng/tháng, phí vượt hạn mức là 0,075%/tháng (nhưng không thấp hơn 50.000đồng), phí chậm thanh toán (phí trễ hạn 6%/số tiền trễ hạn nhưng không thấp hơn 80.000đồng) và một số loại phí khác tùy theo dịch vụ mà anh D1 sử dụng. Nếu trên 10 ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán mà anh D1 không thanh toán thì Ngân hàng được quyền chuyển toàn bộ dư nợ của anh D1 thành nợ đến hạn và buộc phải trả toàn bộ dư nợ và chấm dứt sử dụng Thẻ và tính lãi theo lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.

Trong quá trình sử dụng thẻ, anh D1 đã thực hiện giao dịch rút số tiền 10.000.000đồng và đã thanh toán không đầy đủ được tổng số tiền là 10.411.000đồng (trong đó tiền vốn là 3.312.929đồng, tiền lãi và phí là 7.098.071đồng). Anh D1 ngưng không thanh toán từ ngày 31/5/2019 nên đến ngày 31/7/2019 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ đối với anh D1 và chuyển toàn bộ sang nợ quá hạn đối với số dư nợ là 7.462.212đồng và tính lãi theo lãi suất nợ quá hạn là 3.75%/tháng. Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu anh D1 thanh toán số nợ trên nhưng anh D1 không thực hiện. Tính đến ngày 19/11/2019, anh D1 còn nợ Ngân hàng số tiền vốn là 6.687.071đồng và tiền lãi trong hạn là 775.141đồng và lãi quá hạn là 1.035.408đồng, tổng cộng là 8.497.620đồng.

Nay Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT yêu cầu anh Hồ Nhựt D1 phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền vốn 6.687.071đồng và tiền lãi tính đến ngày 19/11/2019 là 1.810.549đồng, tổng cộng là 8.497.620đồng và yêu cầu trả lãi phát sinh từ sau ngày 19/11/2019 đến ngày trả hết nợ theo hợp đồng tín dụng ngày 01/3/2017), yêu cầu trả một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

* Đối với bị đơn anh Hồ Nhựt D1 : Tòa án đã tiến hành thông báo thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa:

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện yêu cầu bị đơn anh Hồ Nhựt D1 phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền vốn 6.687.071đồng và tiền lãi tính đến ngày 27/5/2020 là 3.582.869đồng, tổng cộng là 10.269.940đồng và yêu cầu trả lãi phát sinh từ sau ngày 27/5/2020 đến ngày trả hết nợ theo hợp đồng tín dụng ngày 01/3/2017), yêu cầu trả một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, riêng bị đơn không thực hiện đúng quy định. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Hồ Nhựt D1 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đương sự theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Trong quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn như sau: Vào ngày 08/02/2017, anh Hồ Nhựt D1 gởi đề nghị cấp thẻ tín dụng theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng kèm theo Bản Điều khoản và điều kiện và được Ngân hàng chấp nhận ngày 01/3/2017. Anh D1 được sử dụng thẻ tín dụng này lần đầu vào ngày 30/4/2017. Theo hợp đồng đã ký kết: Anh D1 được Ngân hàng cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 10.000.000đồng, mục đích vay tiêu dùng cá nhân. Khi sử dụng thẻ tín dụng, Ngân hàng gởi Thông báo cho anh D1 biết dư nợ và số tiền phải thanh toán cho Ngân hàng theo định kỳ hàng tháng, thời hạn thanh toán vào ngày 25 hàng tháng, nếu không thanh toán hoặc thanh toán không hết dư nợ thì phải chịu thêm khoản lãi theo mức lãi suất 2,5%/tháng được tính trên tổng dư nợ, ngoài ra anh D1 còn phải chịu các khoản phí hàng năm (được thu mỗi năm một lần), phí thông báo 10.000đồng/tháng, phí vượt hạn mức là 0,075%/tháng (nhưng không thấp hơn 50.000đồng), phí chậm thanh toán (phí trễ hạn 6%/số tiền trễ hạn nhưng không thấp hơn 80.000đồng) và một số loại phí khác tùy theo dịch vụ mà anh D1 sử dụng. Nếu trên 10 ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán mà anh D1 không thanh toán thì Ngân hàng được quyền chuyển toàn bộ dư nợ của anh D1 thành nợ đến hạn và buộc phải trả toàn bộ dư nợ và chấm dứt sử dụng Thẻ và tính lãi theo lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Trong quá trình sử dụng thẻ anh D1 đã thực hiện giao dịch rút số tiền 10.000.000đồng và đã thanh toán được tổng số tiền là 10.411.000đồng. Anh D1 ngưng không thanh toán từ ngày 31/5/2019 nên đến ngày 31/7/2019 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ đối với anh D1 và chuyển toàn bộ sang nợ quá hạn đối với số dư nợ là 7.462.212đồng và tính lãi theo lãi suất nợ quá hạn là 3.75%/tháng. Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu anh D1 thanh toán số nợ trên nhưng anh D1 không thực hiện. Tính đến ngày 27/5/2020, anh D1 còn nợ Ngân hàng số tiền vốn là 6.687.071 đồng và tiền lãi trong hạn là 775.141đồng và lãi quá hạn là 2.807.728đồng, tổng cộng là 10.269.940đồng.

[2.2] Lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, bị đơn đã được thông báo các văn bản tố tụng, đã được nhận bản sao các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn không có ý kiến phản đối đối với lời trình bày của nguyên đơn. Căn cứ vào Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử công nhận những tình tiết nguyên đơn trình bày nêu trên là sự thật.

[2.3] Xét thấy, Hợp đồng cấp thẻ tín dụng giữa Ngân hàng và anh Hồ Nhựt D1 được giao kết vào ngày 01/3/2017 trên cơ sở tự nguyện, mục đích và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, căn cứ vào Điều 117 và 401 của Bộ luật dân sự, Hợp đồng này có hiệu lực từ ngày 01/3/2017 và những thỏa thuận trong Hợp đồng kèm theo Bản Điều khoản và điều kiện có giá trị ràng buộc các bên khi tham gia giao dịch. Căn cứ vào bản Tóm tắt sao kê quá trình giao dịch, bị đơn anh Hồ Nhựt D1 đã thực hiện giao dịch rút tiền với số tiền 10.000.000đồng và thường xuyên thanh toán trễ hạn nên Ngân hàng đã tính các khoản phí theo quy định cùng tiền lãi là phù hợp với quy định tại các Điều 22 và 24 của Bản Điều khoản và điều kiện. Đồng thời, do bị đơn đã không thực hiện việc thanh toán theo đúng hạn nên Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ đối với anh D1 và chuyển toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn và tính lãi theo lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn đối với toàn bộ dư nợ tại thời điểm vi phạm là phù hợp với quy định tại Điều 23 của Bản Điều khoản và điều kiện và quy định tại Điều 91 của Luật các Tổ chức tín dụng nên được chấp nhận.

[2.5] Hội đồng xét xử xét thấy nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hoàn toàn do lỗi của bị đơn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả tiền khi đến hạn theo đúng thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ của bên được cấp tín dụng theo quy định tại Điều 2 của Bản Điều khoản và điều kiện và quy định tại Điều 95 của Luật các Tổ chức tín dụng, do đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là buộc bị đơn có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền 6.687.071đồng cùng tiền lãi tính đến ngày 27/5/2020 là 3.582.869đồng, tổng cộng là 10.269.940đồng cùng tiền lãi phát sinh từ sau ngày 27/5/2020 theo hợp đồng cấp tín dụng trong thời gian nhất định là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, lời đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Về án phí sơ thẩm: Bị đơn anh Hồ Nhựt D1 có nghĩa vụ chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 35, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 91, 95 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 117, Điều 401 của Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: 1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT.

Buộc bị đơn anh Hồ Nhựt D1 có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT số tiền là 10.269.940đồng (mười triệu hai trăm sáu mươi chín ngàn chín trăm bốn mươi đồng) và tiền lãi phát sinh từ sau ngày 27/5/2020 cho đến khi trả hết nợ theo lãi suất được quy định tại hợp đồng cấp thẻ tín dụng ngày 01/3/2017 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT và anh Hồ Nhựt D1 . Thời gian thực hiện ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

2/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Hồ Nhựt D1 phải chịu 513.497đồng. Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT 300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 01775 ngày 31/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.

3/ Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

4/ Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản 107/2020/DS-ST ngày 27/05/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:107/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về