​​​​​​​Bản án 243/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 243/2017/HSST NGÀY 25/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/10/2017, Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 232/2017/TLST-HS ngày 04/10/2017 đối với:

Họ và tên: Nguyễn Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 09/01/1998; Tại: Tỉnh Đắk Lắk;

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn A, xã H, Tp. B, Đắk Lắk

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;

Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không;

Trình độ học vấn: 8/12; Tiền án; Tiền sự: Không;

Con ông: Nguyễn Văn H – Sinh năm: 1970; Con bà: Mai Thị H - Sinh năm: 1972. Hiện đều trú tại: Thôn A, xã H, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo chưa có vợ con.

Nhân thân: Từ nhỏ sống cùng gia đình tại thôn A, xã H, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 8/12 thì nghỉ ở nhà phụ giúp gia đình.

Ngày 21/6/2017 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 27/6/2017, bị Cơ quan bị khởi tố và tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. Buôn Ma Thuột cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

- Anh Trương Vĩnh T (Vắng mặt)

Trú tại: Tổ dân phố B, phường T1, Tp. B, Đắk Lắk

- Trần Văn C (Vắng mặt)

Trú tại: Tổ dân phố C, phường T2, Tp. B, Đắk Lắk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Nguyễn Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh

Đắk Lắk truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Văn T là đối tượng nghiện chất ma túy (Hêrôin) từ năm 2016. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 21/6/2017, T thuê xe thồ đi từ đường L đến căn nhà (không rõ địa chỉ) ở hẻm đường Đ, phường T2, Tp. B để mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, T nhìn thấy cổng căn nhà khóa và rào lưới kín, trong sân có một người đàn ông (không rõ đặc điểm nhận dạng và lai lịch), T nói người này bán cho T 200.000 đồng ma túy Hêrôin rồi đưa 200.000 đồng qua khe cửa, người đàn ông trong sân lấy tiền và đưa cho T 01 gói giấy bạc bên trong chứa ma túy Hêrôin. Sau khi mua được ma túy, T tiếp tục đi xe thồ đến siêu thị M trên đường N thuộc phường T1, Tp. B để sử dụng. Khi T đang ở trong khu vực nhà vệ sinh tầng trệt của siêu thị thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên tay phải của Nguyễn Văn T 01 gói giấy bạc bên trong chứa ma túy Hêrôin và đã tiến hành niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 381/GĐMT-PC54 ngày 26/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong gói giấy bạc có khối lượng 0,1729gam. Chất gửi giám định có ma túy, loại ma túy là Hêrôin.

Tại bản Cáo trạng số 246/KSĐT-HS ngày 02/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7 và điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận hành vi phạm tội đúng như đã khai nhận tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột và phù hợp với nội dung truy tố tại bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T và giữ nguyên quyết định truy tố tại bản Cáo trạng số 246/KSĐT-HS ngày 02/10/2017. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7 và điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo với mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù giam.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 BLTTHS

Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 0,1584 gam hêrôin được niêm phong trong gói số 381/GĐMT – PC45 còn lại sau giám định là tang vật của vụ án.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận, bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình Sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7 và điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015

Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định:

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc 1 trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm

. . . . . . . . . . ;

c) Heorin, Cocain, Methamphetamine, Am phetamin, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam.

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là công dân có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống, bị cáo biết được rằng ma túy là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý. Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt, sử dụng trái phép chất ma túy.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Mặt khác, đối chiếu với Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi , bổ sung năm 2017) thì hành vi của bị cáo là tương ứng với điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật này và tại điều khoản này quy định mức hình phạt là phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, là nhẹ hơn so với quy định của khoản 1 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009). Do đó, cần áp dụng Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017; khoản 3 Điều 7 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước.

Với tính chất và mức độ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc và tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới đảm bảo tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T, Công an Tp. Buôn Ma Thuột đã quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

Đối với người nam giới (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đã bán hêrôin cho Nguyễn Văn T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột đã tách hành vi của người này để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 BLTTHS Đối với 0,1584 gam hêrôin được niêm phong trong gói số 381/GĐMT – PC45 còn lại sau giám định là tang vật của vụ án nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội khóa 14; khoản 3 Điều 7 và điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 21/6/2017.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình Sự Tịch thu, tiêu hủy 0,1584 gam hêrôin được niêm phong trong gói số 381/GĐMT – PC45 còn lại sau giám định là tang vật của vụ án.

* Về án phí: Áp dụng điểm a Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

​​​​​​​Bản án 243/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:243/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về