Số hiệu |
1929/2007/KDTM-ST |
Tiêu đề |
Tranh chấp hợp đồng chuyển giao công nghệ chế biến trứng vịt bắc thảo giữa ông Đoàn Minh Phúc và Doanh nghiệp tư nhân Ba Huân |
Ngày ban hành |
16/10/2007 |
Cấp xét xử |
Sơ thẩm |
Lĩnh vực |
Kinh tế |
Căn cứ vào hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 giữa ông Đòan Minh Phúc và DNTN Ba Huân do bà Phạm Thị Huân làm chủ (bà Phạm Thị Kim Anh đại diện ký hợp đồng) và lời khai nhận của các bên đương sự tại phiên tòa thì ông Đòan Minh Phúc có chuyển giao công nghệ chế biến trứng vịt bắc thảo cho DNTN Ba Huân với giá thỏa thuận là 40.000.000 đồng, ông Phúc đã nhận ứng trước 5.000.000 đồng....
Lẽ ra, sau khi được chuyển giao công nghệ, nếu có khiếu nại về chất lượng sản phẩm thử nghiệm (nghĩa là khiếu nại về hiệu quả của công nghệ) thì DNTN Ba Huân phải có trách nhiệm lưu giữ kết quả thử nghiệm để nhờ cơ quan chuyên môn giám định hoặc khởi kiện ra Tòa án để Tòa án trưng cầu giám định nhưng DNTN Ba Huân lại đơn phương tiêu hủy tòan bộ kết quả thử nghiệm mà không có lý do chính đáng.
Do đó, khiếu nại của DNTN Ba Huân cho rằng kết quả thử nghiệm không đạt là không có cơ sở để được chấp nhận.
Bản án số :1929/2007/KDTM-ST ngày 16/10/2007 V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển giao công nghệ Trong các ngày 11 và 16 tháng 10 năm 2007, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số337/2007/TLST-KDTM ngày 25 tháng 5 năm 2007 về tranh chấp hợp đồng chuyển giao công nghệ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số1806/2007/QĐST-KDTM ngày 03 tháng 10 năm 2007 giữa các đương sự: Nguyên đơn : Ông ĐÒAN MINH PHÚC Địa chỉ : 165 đường Lò Hột, Phường 5, TX. Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh (Có mặt) Bị đơn : Bà PHẠM THỊ HUÂN – Chủ DNTN BA HUÂN Địa chỉ : 28 Nguyễn Đình Chi, Phường 9, Quận 6, TPHCM Đại diện : Ông Đặng Minh Thành, GUQ ngày 25/7/2007 (Có mặt) Bảo vệ quyền lợi cho bị đơn : Luật sư Trần Văn Sỹ, Đòan luật sư tỉnh Vĩnh Long NHẬN THẤY - Nguyên đơn trình bày : Ngày 22/3/2007, ông Đòan Minh Phúc có ký hợp đồng chuyển giao công nghệ chế biến hột vịt bắc thảo cho Doanh nghiệp tư nhân Ba Huân với giá trị chuyển giao là 40.000.000 đồng. Các bên đã tiến hành thử nghiệm đạt yêu cầu nhưng DNTN Ba Huân không chịu thanh tóan số tiền còn lại là 35.000.000 đồng (ông Phúc đã nhận ứng trước 5.000.000 đồng). Do đó, ông Phúc khởi kiện yêu cầu DNTN Ba Huân phải thanh tóan tiếp số tiền còn lại của hợp đồng là 35.000.000 đồng. - Bị đơn trình bày : Xác nhận có ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ chế biến hột vịt bắc thảo với ông Đòan Minh Phúc với trị giá 40.000.000 đồng, ông Phúc đã ứng trước 5.000.000 đồng và cũng đã tiến hành thử nghiệm. Tuy nhiên, DNTN Ba Huân không đồng ý thanh tóan tiếp số tiền còn lại của hợp đồng là 35.000.000 đồng vì kết quả thử nghiệm không đạt yêu cầu và ông Phúc cũng không đồng ý thử nghiệm lại theo đề nghị của DNTN Ba Huân. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành, các bên đương sự vẫn giữ nguyên ý kiến. Tại phiên tòa hôm nay : - Nguyên đơn : Yêu cầu Chủ DNTN Ba Huân phải thanh tóan số tiền còn nợ của hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 là 35.000.000 đồng. - Bị đơn : Không đồng ý thanh tóan tiếp cho nguyên đơn số tiền còn lại của hợp đồng là 35.000.000 đồng vì kết quả thử nghiệm không đạt yêu cầu - Ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn : + Các bên đã cùng kiểm tra kết quả thử nghiệm, kết quả không đạt (so với thành phẩm của một cơ sở khác). + Lẽ ra, DNTN Ba Huân có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước (5.000.000 đồng) nhưng vì thiện chí, DNTN Ba Huân không yêu cầu ông Phúc phải trả lại. + Hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa hai bên có thể bị vô hiệu vì ông Phúc có thể đã sử dụng công nghệ thuộc quyền sở hữu của người khác mà không được phép. Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì ông Phúc cũng không có quyền đòi thanh tóan số tiền còn lại của hợp đồng. + Đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. XÉT THẤY Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định : 1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án : Đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại (chuyển giao công nghệ) giữa các cá nhân đều có mục đích lợi nhuận, bị đơn có địa chỉ kinh doanh và cư trú tại TPHCM. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2, Điều 29, khỏan 1 Điều 34, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TPHCM theo thủ tục tố tụng dân sự. 2. Về thời hiệu khởi kiện : Ngày 22/3/2007, các bên ký hợp đồng. Đầu tháng 5/2007, phát sinh tranh chấp. Ngày 04/5/2007, nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án. Căn cứ vào điểm a, khoản 3, Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết. 3. Về nội dung tranh chấp : Xét yêu cầu của nguyên đơn đòi Chủ DNTN Ba Huân phải thanh tóan số tiền còn nợ của hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 là 35.000.000 đồng: Căn cứ vào hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 giữa ông Đòan Minh Phúc và DNTN Ba Huân do bà Phạm Thị Huân làm chủ (bà Phạm Thị Kim Anh đại diện ký hợp đồng) và lời khai nhận của các bên đương sự tại phiên tòa thì ông Đòan Minh Phúc có chuyển giao công nghệ chế biến trứng vịt bắc thảo cho DNTN Ba Huân với giá thỏa thuận là 40.000.000 đồng, ông Phúc đã nhận ứng trước 5.000.000 đồng. Các bên cũng đã thống nhất xác nhận: Từ ngày 18 đến ngày 28 tháng 3 năm 2007, ông Phúc đã tiến hành chuyển giao công nghệ cho DNTN Ba Huân bằng việc chế biến thử nghiệm 10 ổ trứng vịt bắc thảo với sự chứng kiến của đại diện DNTN Ba Huân. Việc thử nghiệm đã hòan tất và các bên đã tiến hành kiểm tra kết quả thử nghiệm. Tuy nhiên, tại thời điểm này, bắt đầu phát sinh tranh chấp vì hai bên không thống nhất ý kiến đánh giá kết quả thử nghiệm: ông Phúc cho rằng kết quả đã đạt yêu cầu (5/10), còn DNTN Ba Huân cho rằng không đạt (chỉ đạt 2/5). Ông Phúc yêu cầu niêm phong chờ giải quyết nhưng DNTN Ba Huân không đồng ý và đã tự đem tiêu hủy tòan bộ sản phẩm thử nghiệm (10 ổ trứng vịt) mà không có sự đồng ý và cũng không có sự chứng kiến của ông Phúc hoặc đại diện chính quyền địa phương hoặc cơ quan chức năng. Lẽ ra, sau khi được chuyển giao công nghệ, nếu có khiếu nại về chất lượng sản phẩm thử nghiệm (nghĩa là khiếu nại về hiệu quả của công nghệ) thì DNTN Ba Huân phải có trách nhiệm lưu giữ kết quả thử nghiệm để nhờ cơ quan chuyên môn giám định hoặc khởi kiện ra Tòa án để Tòa án trưng cầu giám định nhưng DNTN Ba Huân lại đơn phương tiêu hủy tòan bộ kết quả thử nghiệm mà không có lý do chính đáng (DNTN Ba Huân cho rằng do lo sợ dịch cúm gia cầm và ô nhiễm môi trường là không có cơ sở vì trứng nguyên liệu do chính DNTN Ba Huân cung cấp, phải bảo đảm không nhiễm vi rút trước khi đưa vào thử nghiệm,và việc ô nhiễm môi trường phải có cơ quan y tế xác nhận mới có cơ sở). Trong quá trình chuẩn bị xét xử vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bên đương sự không yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định công nghệ đã được chuyển giao theo hợp đồng. Do đó, khiếu nại của DNTN Ba Huân cho rằng kết quả thử nghiệm không đạt là không có cơ sở để được chấp nhận. Yêu cầu của ông Đòan Minh Phúc phù hợp với quy định của pháp luật tại các điều 292 và 297 Luật thương mại năm 2005; Điều 412 Bộ luật dân sự năm 2005, nên có cơ sở để được chấp nhận 4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 15, 18 và 19 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án : - Chủ DNTN Ba Huân phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả cho ông Đòan Minh Phúc. - Ông Đòan Minh Phúc không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH Aùp dụng các điều 292 và 297 Luật thương mại năm 2005; Điều 412 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự; 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Phạm Thị Huân - Chủ DNTN Ba Huân, phải thanh tóan cho ông Đòan Minh Phúc số tiền còn nợ của hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 giữa hai bên là 35.000.000 đ (ba mươi lăm triệu đồng). 2. Về án phí : - Bà Phạm Thị Huân phải chịu án phí sơ thẩm là 1.750.000 đ ( một triệu bảy trăm năm chục ngàn đồng). - Ông Đòan Minh Phúc không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 875.000đồng (theo Biên lai thu tiền số 002029 ngày 23 tháng 5 năm 2007 của Thi hành án dân sự TPHCM). 3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông Đòan Minh Phúc, nếu bà Phạm Thị Huân không chịu thanh toán số tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án. 1. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./. |