Hiện tượng ghi đề, ôm đề khá phổ biến ở cả nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, bạn có biết rằng ghi đề, ôm đề cũng là một hình thức tổ chức đánh bạc đánh bạc và có thể bị đi tù không? Xử lý hành vi ghi lô, đề - hình minh họa Ghi lô, đề là một hình thức tổ chức đánh bạc qui định Bộ Luật hình sự 2015 Chơi lô, đề là một hình thức đánh bạc căn cứ vào khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. ““Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp. Hành vi “ghi lô, đề” sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự Như vậy, hành vi ‘ghi lô, đề” hay còn gọi là “ôm lô, đề” sẽ xử lý hình sự thỏa mãn cấu thành tội phạm được quy định tại Khoản 121 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) và Điều 322 Bộ luật hình sự Khoản 121 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017: “1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên; b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên; c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên; d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc; đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên; c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội; d) Tái phạm nguy hiểm.” Khoản 3 Điều 322 BLHS 2015 có quy định như sau: 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xử phạt vi phạm hành chính Bên cạnh đó, nếu hành vi ghi lô đề không thỏa mãn cấu thành tội phạm Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 322 BLHS 2015) thì sẽ bị xử phạt vi phạm chính. Mức xử phạt vi phạm hành chính với hành vi tổ ghi lô, đề (tổ chức đánh bạc) được quy định tại Khoản 4, khoản 5 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP cụ thể như sau: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép, dùng nhà, chỗ ở của mình hoặc phương tiện, địa điểm khác để chứa bạc; Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi Làm chủ lô, đề; Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề; Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;
Nên xác định số tiền phạm tội đánh bạc như thế nào?
Trong quá trình tìm hiểu bản án tôi có bắt gặp một tình huống thực tế như thế này, nên tôi xin được phép nêu ra để mọi người cùng tìm hiểu và cho ý kiến. Nội dung vụ án: Khoảng 14 giờ ngày 10/5/2017, Giáp Văn A dùng điện thoại di động nhắn tin vào điện thoại di động của Bùi Văn B để nhờ giúp mua số lô, số đề với tổng số tiền là 1.500.000 đồng. A đã trả tiền cho B đầy đủ. Sau đó, B dùng điện thoại nhắn tin chuyển toàn bộ số lô đề mà A đánh cho Trần Văn C để mua số lô, đề. C nhận đủ tiền và nhắn tin lại cho B là “ok” tức là đồng ý. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Công an huyện kiểm tra hành chính thì phát hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức mua số lô, số đề của Giáp Văn A. Đến 18 giờ 45 phút cùng ngày sau khi mở thưởng, B so thấy trong số lô, số đề mà A mua trúng tổng số tiền là 4.000.000 đồng nên đã nhắn tin vào số thuê bao di động của A là: “Chú trúng, 4 triệu”. Đến 19 giờ cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của B và C thu giữ vật chứng liên quan đến hành vi đánh bạc. Việc xác định số tiền được sử dụng vào mục đích đánh bạc làm căn cứ để xử lý đối với Giáp Văn A và Bùi Văn B có quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất: B là đồng phạm với vai trò giúp sức cho A, tổng số tiền được sử dụng đánh bạc là 1.500.000 đồng. Do bản chất số tiền trúng thưởng 4.000.000 đồng là A được nhận chứ không phải B. Hành vi của A bị phát hiện trước khi có kết quả mở thưởng sổ xố. B là người giúp sức không được hưởng lợi gì, tại thời điểm A bị phát hiện với số tiền là 1.500.000 đồng. Do vậy không khởi tố đối với cả A và B. Quan điểm thứ hai: A và B là đồng phạm, tổng số tiền được sử dụng đánh bạc là 1.500.000 + 4.000.000 (số trúng) = 5.500.000 đồng. Do hành vi của B bị phát hiện sau khi có kết quả xổ số nên cần cộng cả số tiền trúng thưởng vào tổng số tiền đánh bạc. Do vậy cần khởi tố đối với cả A và B. Quan điểm thứ ba: A và B là đồng phạm. Tuy nhiên do hành vi của A bị ngăn chặn trước khi có kết quả xổ số, nên số tiền sử dụng đánh bạc đối với A là 1.500.000 đồng. Còn hành vi của B bị phát hiện sau khi có kết quả mở thưởng nên tổng số tiền sử dụng vào đánh bạc của B xác định là 1.500.000 + 4.000.000 (trúng thưởng) = 5.500.000 đồng. Trường hợp này chỉ khởi tố B và không khởi tố A. Quan điểm cá nhân của tôi thì tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất. Không biết quan điểm của mọi người như thế nào?
Hiện tượng ghi đề, ôm đề khá phổ biến ở cả nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, bạn có biết rằng ghi đề, ôm đề cũng là một hình thức tổ chức đánh bạc đánh bạc và có thể bị đi tù không? Xử lý hành vi ghi lô, đề - hình minh họa Ghi lô, đề là một hình thức tổ chức đánh bạc qui định Bộ Luật hình sự 2015 Chơi lô, đề là một hình thức đánh bạc căn cứ vào khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. ““Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp. Hành vi “ghi lô, đề” sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự Như vậy, hành vi ‘ghi lô, đề” hay còn gọi là “ôm lô, đề” sẽ xử lý hình sự thỏa mãn cấu thành tội phạm được quy định tại Khoản 121 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) và Điều 322 Bộ luật hình sự Khoản 121 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017: “1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên; b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên; c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên; d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc; đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên; c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội; d) Tái phạm nguy hiểm.” Khoản 3 Điều 322 BLHS 2015 có quy định như sau: 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xử phạt vi phạm hành chính Bên cạnh đó, nếu hành vi ghi lô đề không thỏa mãn cấu thành tội phạm Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 322 BLHS 2015) thì sẽ bị xử phạt vi phạm chính. Mức xử phạt vi phạm hành chính với hành vi tổ ghi lô, đề (tổ chức đánh bạc) được quy định tại Khoản 4, khoản 5 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP cụ thể như sau: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép, dùng nhà, chỗ ở của mình hoặc phương tiện, địa điểm khác để chứa bạc; Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi Làm chủ lô, đề; Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề; Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;
Nên xác định số tiền phạm tội đánh bạc như thế nào?
Trong quá trình tìm hiểu bản án tôi có bắt gặp một tình huống thực tế như thế này, nên tôi xin được phép nêu ra để mọi người cùng tìm hiểu và cho ý kiến. Nội dung vụ án: Khoảng 14 giờ ngày 10/5/2017, Giáp Văn A dùng điện thoại di động nhắn tin vào điện thoại di động của Bùi Văn B để nhờ giúp mua số lô, số đề với tổng số tiền là 1.500.000 đồng. A đã trả tiền cho B đầy đủ. Sau đó, B dùng điện thoại nhắn tin chuyển toàn bộ số lô đề mà A đánh cho Trần Văn C để mua số lô, đề. C nhận đủ tiền và nhắn tin lại cho B là “ok” tức là đồng ý. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Công an huyện kiểm tra hành chính thì phát hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức mua số lô, số đề của Giáp Văn A. Đến 18 giờ 45 phút cùng ngày sau khi mở thưởng, B so thấy trong số lô, số đề mà A mua trúng tổng số tiền là 4.000.000 đồng nên đã nhắn tin vào số thuê bao di động của A là: “Chú trúng, 4 triệu”. Đến 19 giờ cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của B và C thu giữ vật chứng liên quan đến hành vi đánh bạc. Việc xác định số tiền được sử dụng vào mục đích đánh bạc làm căn cứ để xử lý đối với Giáp Văn A và Bùi Văn B có quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất: B là đồng phạm với vai trò giúp sức cho A, tổng số tiền được sử dụng đánh bạc là 1.500.000 đồng. Do bản chất số tiền trúng thưởng 4.000.000 đồng là A được nhận chứ không phải B. Hành vi của A bị phát hiện trước khi có kết quả mở thưởng sổ xố. B là người giúp sức không được hưởng lợi gì, tại thời điểm A bị phát hiện với số tiền là 1.500.000 đồng. Do vậy không khởi tố đối với cả A và B. Quan điểm thứ hai: A và B là đồng phạm, tổng số tiền được sử dụng đánh bạc là 1.500.000 + 4.000.000 (số trúng) = 5.500.000 đồng. Do hành vi của B bị phát hiện sau khi có kết quả xổ số nên cần cộng cả số tiền trúng thưởng vào tổng số tiền đánh bạc. Do vậy cần khởi tố đối với cả A và B. Quan điểm thứ ba: A và B là đồng phạm. Tuy nhiên do hành vi của A bị ngăn chặn trước khi có kết quả xổ số, nên số tiền sử dụng đánh bạc đối với A là 1.500.000 đồng. Còn hành vi của B bị phát hiện sau khi có kết quả mở thưởng nên tổng số tiền sử dụng vào đánh bạc của B xác định là 1.500.000 + 4.000.000 (trúng thưởng) = 5.500.000 đồng. Trường hợp này chỉ khởi tố B và không khởi tố A. Quan điểm cá nhân của tôi thì tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất. Không biết quan điểm của mọi người như thế nào?