MỚI: Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)
Ngày 24/06/2024, Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) với 94,25% tổng số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) được thông qua gồm 9 chương, với 152 điều, có hiệu lực từ ngày 01/01/2025. Luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân; bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân. (1) Tổ chức và thẩm quyền thành lập các Tòa án nhân dân Tổ chức các Tòa án nhân tiếp tục giữ nguyên quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện như Luật hiện hành, không đổi thành Tòa án nhân dân tỉnh thành Tòa án nhân dân phúc thẩm và Tòa án nhân dân huyện thành Tòa án nhân dân sơ thẩm. Tổ chức của Tòa án nhân dân bao gồm: + Tòa án nhân dân tối cao. + Tòa án nhân dân cấp cao. + Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. + Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. + Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt Hành chính; Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt Sở hữu trí tuệ; Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản (sau đây gọi chung là Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt). + Tòa án quân sự Trung ương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực (sau đây gọi chung là Tòa án quân sự). Xem cập nhật mới nhất của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân Bài được viết theo dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7):https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/25/luat-to-chuc-toa-an-nhan-dan.doc (2) Tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp - Người từ đủ 16 tuổi trở lên được tham dự phiên tòa xét xử công khai theo quy định của pháp luật. Người dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập đến phiên tòa. - Người tham dự phiên tòa, phiên họp phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội quy phiên tòa, phiên họp. Đối với việc ghi âm, ghi hình, theo khoản 3 và khoản 4 Điều 141 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) quy định như sau: - Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử tại phiên tòa, phiên họp phải được sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa; việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của người tiến hành tố tụng khác, người tham gia phiên tòa, phiên họp thì phải được sự đồng ý của họ và sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa, phiên họp. Việc ghi hình ảnh tại phiên tòa, phiên họp chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp và tuyên án, công bố quyết định. - Tòa án tiến hành ghi âm lời nói, ghi hình ảnh toàn bộ diễn biến phiên tòa, phiên họp trong trường hợp cần thiết để phục vụ nhiệm vụ chuyên môn. Việc sử dụng, cung cấp kết quả ghi âm lời nói, ghi hình ảnh diễn biến phiên tòa được thực hiện theo quy định của pháp luật. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết khoản 4. - Người tham dự phiên tòa, phiên họp không được truyền phát trực tiếp, trực tuyến; không được đưa tin sai sự thật; không đưa tin làm ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan của Tòa án; không được vi phạm quyền con người của bị cáo, bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác trong vụ án; không được vi phạm quy định về giữ bí mật theo quy định của pháp luật căn cứ tại khoản 5 Điều 141. (3) Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án Tại Điều 17 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) đã đề cập đến bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án như sau: - Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. - Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được bảo đảm thi hành theo quy định của pháp luật. - Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nếu có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, kết luận không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, vụ việc phải do Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định và khắc phục theo trình tự, thủ tục luật định. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan không thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xem xét xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Xem cập nhật mới nhất của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân Bài được viết theo dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7): https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/25/luat-to-chuc-toa-an-nhan-dan.doc Tóm lại, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) được thông qua gồm 9 chương, với 152 điều, giữ nguyên tên gọi Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân huyện. Bên cạnh đó quy định việc ghi hình ảnh tại phiên tòa, phiên họp chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp và tuyên án, công bố quyết định. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2025.
Đối tượng nào được tham gia làm hội thẩm nhân dân trong một phiên tòa?
Hội thẩm nhân dân được hiểu là Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án. Để trở thành Hội thẩm nhân dân phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 85 Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014 như sau: Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực. Có kiến thức pháp luật. Có hiểu biết xã hội. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với một số vụ án có tính chất khác nhau mà tiêu chí lựa chọn Hội thẩm nhân dân sẽ khác nhau như: Vụ án dân sự: Điều 63 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em. Đối với vụ án lao động thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác trong tổ chức đại diện tập thể lao động hoặc người có kiến thức về pháp luật lao động. Vụ án Hình sự: Điều 423 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định: Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi. Hội thẩm nhân dân có trách nhiệm gì trong các phiên tòa? Căn cứ Điều 89 Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014 quy định trách nhiệm của hội thẩm nói chung và hội thẩm nhân dân nói riêng như sau: Trung thành với Tổ quốc, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Tham gia xét xử theo sự phân công của Chánh án Tòa án mà không được từ chối, trừ trường hợp có lý do chính đáng hoặc do luật tố tụng quy định. Độc lập, vô tư, khách quan trong xét xử, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật. Tích cực học tập để nâng cao kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử. Chấp hành nội quy, quy chế của Tòa án. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật.
Bị cáo dưới 18 tuổi có được ngồi gần cha mẹ trong phiên toà được hay không?
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần, chưa thể tham gia đầy đủ các quan hệ xã hội do họ có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý và thể chất. Từ việc chưa phát triển đầy đủ này, pháp luật đã có những quy định điều chỉnh riêng đối với họ. Căn cứ Điều 6 Thông tư 01/2017/TT-TANDTC quy định về phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên như sau: 1. Vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa, phiên họp trong phòng xử án được bố trí trên cùng một mặt phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn tròn; tường trong phòng xử án có màu xanh. Người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. 2. Bàn, ghế trong phòng xử án được thiết kế theo kiểu dáng bàn, ghế văn phòng. 3. Ngoài các quy định tại điều này, phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên phải bảo đảm quy định tại Điều 4 và Điều 5 Thông tư này. Tại Khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người chưa thành niên như sau: 1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Theo Điều 136 Bộ luật dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau: 1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. 2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. 3. Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. 4. Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, cha mẹ là người đại diện của người dưới 18 tuổi nên bị cáo có thể ngồi gần với cha mẹ của mình khi tham gia tố tụng tại phiên toà.
Cá nhân cố ý vắng mặt xét xử theo giấy triệu tập hợp lệ có thể bị phạt đến 20 triệu đồng
Ngày 15/08/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa cho lấy ý kiến dự thảo Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (dự thảo Pháp lệnh). Nội dung dự thảo lần này ban hành chế tài đối với những hành vi cản trở hoạt động tố tụng được xem là cần thiết. Qua đó, đảm bảo sự tôn nghiêm và quy chuẩn trong hoạt động tố tụng. Theo đó, tại Điều 14 dự thảo Pháp lệnh quy định chi tiết các hành vi làm cản trở hoạt động tố tụng. Trong đó, cá nhân có hành vi vi phạm quy định về sự có mặt theo giấy triệu tập của người tiến tố tụng sẽ được áp dụng theo các mức phạt cho từng hành vi cụ thể như sau: Đối với người có hành vi vi phạm quy định về lệnh triệu tập của phiên tòa lần đầu thì có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 ngàn - 5 triệu đồng. Trong thực tế, các trường hợp cố tình không tham gia phiên tòa nhằm mục đích hoãn phiên tòa qua đó kéo dài thời gian tiến hành tố tụng. Điều này làm việc thực hiện giải quyết vụ việc, vụ án gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, người tham gia tố tụng đã được cơ quan, người tiến hành tố tụng triệu tập hợp lệ nhưng cố ý không chấp hành mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và nếu sự vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc thu thập, xác minh chứng cứ hoặc giải quyết vụ án. Mức phạt này nhằm cảnh cáo người tham gia tố tụng cố ý vi phạm, qua đó nhắc nhở cần tuân thủ các quy định và đảm bảo việc tiến hành tố tụng được diễn ra kịp thời và nhanh chóng. Tại lần triệu tập hợp lệ thứ hai, người tham gia tố tụng cố ý vắng mặt tiếp mà không phải vì lý do chính đáng hay trở ngại khách quan thì phạt tiền từ 5 triệu - 10 triệu đồng. Mức phạt này tương đối cao đối với người tham gia tố tụng đã được cơ quan, người tiến hành tố tụng triệu tập nhưng từ chối tham gia xét xử. Việc tăng mức phạt này nhằm răn đe đối với hành vi tái phạm. Thực trạng này diễn ra không ít trong hoạt động tố tụng, điều này làm gián đoạn thời gian tố tụng dẫn đến ùn ứ việc giải quyết các vấn đề khác. Bên cạnh 02 mức phạt mà người tham gia tố tụng vi phạm lệnh triệu tập trong điều kiện thông thường thì Pháp lệnh đặc biệt xử lý nghiêm người có hành vi đe dọa, hành hung hoặc lợi dụng sự lệ thuộc nhằm cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đến phiên tòa, phiên họp theo triệu tập của Tòa án. Qua đó bị phạt tiền từ 10 triệu - 20 triệu đồng đối với người có hành vi như trên. Lưu ý: Tại khoản 2 Điều 6 dự thảo Pháp lệnh quy định đối với người vi phạm là tổ chức thì gấp 2 lần so với cá nhân. Hiện hành, tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định việc tiến hành hoạt động động tố tụng trong các trường hợp đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt theo lệnh triệu tập được thực hiện như sau: Từ chối tham gia lệnh triệu tập phiên tòa lần một Trong lần triệu tập hợp lệ lần thứ nhất của Tòa án, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa. Trong trường hợp người đó vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Như vậy, theo quy định trên thông thường người tham gia tố tụng dù có lý do hay vắng mặt không thông báo thì vẫn phải hoãn phiên tòa và triệu tập lại ở lần tiếp theo. Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc hoãn phiên tòa. Từ chối tham gia lệnh triệu tập phiên tòa lần hai Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau: (1) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật. (2) Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ. (3) Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật. (4) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật. (5) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ. Như vậy, pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều bất cập trong trường hợp người tham gia hoạt động tố tụng lợi dụng việc vắng mặt nhằm gián đoạn kéo dài thời gian tranh tụng mà chưa có quy định xử phạt các hành vi trên. Điều này gây ra nhiều thiệt hại và mất đi sự tôn nghiêm của quy định về tố tụng. Để hạn chế thực trạng trên thì dự thảo Pháp lệnh đã ban hành một số chế tài nhằm thực thi hoạt động tố tụng được diễn ra nhanh chóng giúp người dân tự ý thức hơn về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng của mình.
Đập bàn, gây rối tại Tòa án thậm chí có thể bị phạt tù!
Thi thoảng trong những vụ án đình đám mà các bên tham gia phiên tòa có chức quyền, địa vị, báo chí lại ghi được hình ảnh họ đập bàn, la lối ngay tại phiên xét xử trước thẩm phán, viện kiểm sát, và những người có mặt tại Tòa. Thực tế hành vi này có thể bị phạt hành chính và thậm chí là truy cứu trách nhiệm hình sự. Đập bàn, gây rối tại phiên tòa - Minh họa Điều 391 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (BLHS) quy định hành vi "Gây rối trật tự phiên tòa" được hiểu là hành vi thóa mạ, xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm thành viên Hội đồng xét xử, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác hoặc người tham gia phiên tòa, phiên họp hoặc có hành vi đập phá tài sản tại phiên tòa nếu không thuộc trường hợp "Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản". Tại Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (cụ thể là Điều 256) có quy định về Nội quy phiên tòa, theo đó mọi người trong phòng xử án phải tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên trên thực tế, việc tuân thủ nội quy phiên tòa của người tham gia còn có nhiều hạn chế, vẫn còn xảy ra tình trạng gây mất trật tự tại phiên tòa, cá biệt có nhiều trường hợp có hành vi "Gây rối trật tự phiên tòa", xúc phạm, hành hung Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tòa, phiên họp. Việc xử lý đối với những hành vi này đôi khi vẫn còn nhiều hạn chế do các quy định pháp luật về thủ tục xử lý, thẩm quyền xử lý còn chưa thực sự rõ ràng. Tại Điều 467 Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định: “1. Người vi phạm nội quy phiên tòa thì tùy tính chất, mức độ vi phạm có thể bị Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật. 2. Chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định buộc người vi phạm rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính. Cơ quan công an có nhiệm vụ bảo vệ trật tự phiên tòa hoặc người có nhiệm vụ bảo vệ trật tự phiên tòa thi hành quyết định của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính người gây rối trật tự phiên tòa. 3. Trường hợp hành vi của người vi phạm nội quy phiên tòa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Hội đồng xét xử có quyền khởi tố vụ án hình sự. 4. Quy định tại Điều này cũng được dụng đối với người có hành vi vi phạm tại phiên họp của Tòa án”. Bộ Công an cũng ban hành Thông tư 13/2016/TT-BCA Quy định thực hiện nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa của lực lượng Công an nhân dân (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 117/2020/TT-BCA). Trong đó có nêu rõ nguyên tắc, nhiệm vụ, trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa của lực lượng Công an nhân dân. Nếu hành vi gây rối tại tòa chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự: Theo quy định tại Điểm d Khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự an toàn xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống, chống bạo lực gia đình thì hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa, nơi thi hành án hoặc hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động xét xử, thi hành án thì có thể bị xử phạt hành chính. Cụ thể là bị xử phạt mức tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng tùy vào tính chất và mức độ của hành vi gây rối.
Một số vấn đề nghiệp vụ từ các phiên tòa tháng 6/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
Chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất; Tránh nhầm lẫn quyền của đồng chủ sở hữu với quyền của người mượn tài sản, là những vấn đề được đề cập trong phiên họp Hội đồng Thẩm phán Tháng 6/2020. 1. Chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất Ông Nguyễn Văn K khởi kiện yêu cầu buộc vợ chồng ông Lê Chung Th bà Đỗ Thị L thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 01/9/2013, đã được UBND xã chứng thực ngày 17/9/2010. Theo hợp đồng này thì vợ chồng ông Th bà L chuyển nhượng cho ông K diện tích đất 203 m2 với giá 3 tỷ đồng và đã nhận đủ tiền. Vợ chồng ông Th bà L khai rằng việc ký hợp đồng chuyển nhượng chỉ để bảo đảm cho khoản tiền vay 180 triệu đồng của ông K nên yêu cầu tuyên bố hợp đồng ký ngày 01/9/2013 vô hiệu do giả tạo. Bản án sơ thẩm (số 02/2014/DS-ST ngày 20/2/2014 của TAND huyện Văn Giang) và Bản án phúc thẩm (số 44/2014/DS-PT ngày 12/8/2014 của TAND tỉnh Hưng Yên) đều chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn giao đất và cả ngôi nhà có diện tích 84 m2 trên đất chuyển nhượng cho nguyên đơn; buộc nguyên đơn thanh toán giá trị của ngôi nhà cho bị đơn. Một phiên họp Hội đồng Thẩm phán TANDTC Bản án phúc thẩm bị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 100/2017/DS-GĐT, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội đã không chấp nhận kháng nghị. Vợ chồng ông Th và bà L tiếp tục có yêu cầu giám đốc thẩm. Chánh án TAND tối cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 10/6/2020, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị; hủy Quyết định giám đốc thẩm số 100/2017/DS-GĐT, Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm; giao cho cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Hội đồng Thẩm phán xác định các cấp xét xử trước đó đã có 3 sai lầm: - Xác định Hợp đồng chuyển nhượng không có dấu hiệu giả tạo và bên chuyển nhượng đã nhận hết tiền là đánh giá chứng cứ không đúng. Hợp đồng này có đủ căn cứ xác định là giả tạo vì giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng quá chênh lệch so với giá thực tế mà không xác định được lý do của sự chênh lệch này (giá trong hợp đồng là 3 tỷ đồng trong khi giá thực tế được định giá chỉ là 630 triệu đồng). Hợp đồng ghi “việc thanh toán số tiền trên do hai bên tự thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật” thì phải hiểu chưa có việc giao tiền trước khi ký hợp đồng và việc giao nhận sau này phải có chứng từ riêng về giao nhận tiền. Thực tế, ông K không xuất trình được chứng cứ khác về giao nhận tiền. - Việc buộc thực hiện hợp đồng là không có cơ sở pháp lý. Việc buộc thực hiện hợp đồng phải trên cơ sở xác định hợp đồng đã có hiệu lực. Hợp đồng này mới chỉ có chứng thực, chưa có đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền là chưa có hiệu lực (Theo quy định tại Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003, Điều 692 BLDS năm 2005). - Hợp đồng chuyển nhượng bị vô hiệu vì có đối tượng không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 411 BLDS năm 2005. Chỉ cần có một trong các vi phạm nêu ở trên thì Hợp đồng ngày 01/9/2003 đã là hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, cần lưu ý về trường hợp vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được vì đây là trường hợp có ý kiến khác nhau, qua thảo luận Hội đồng Thẩm phán mới nhất trí với Kháng nghị của Chánh án TAND tối cao. Trong vụ án này, trên đất chuyển chượng có nhà ở nhưng các bên không thỏa thuận về nhà ở khi thỏa thuận về chuyển nhượng đất. Trong trường hợp thi hành án, đã có quy định về việc trên đất bị phát mại có tài sản không bị kê biên, kể cả tài sản của người khác (không phải của chủ sử dụng đất) thì Cơ quan thi hành án vẫn được xử lý cả tài sản trên đất (Điều 113 Luật Thi hành án dân sự). Tuy nhiên, trong giao dịch chuyển nhượng thông thường (không phải là thi hành án) thì pháp luật chưa có quy định về trường hợp chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản trên đất. Khi không có thỏa thuận về tài sản trên đất thì quyền sử dụng đất không thể chuyển giao cho người nhận chuyển nhượng sử dụng bình thường và đầy đủ quyền sử dụng của mình. Vì vậy, trong trường hợp hợp đồng không có vi phạm khác, chỉ riêng việc không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất thì cũng là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được. 2. Tránh nhầm lẫn quyền của đồng chủ sở hữu với quyền của người mượn tài sản Nguyên đơn là bà Lý Thị X khởi kiện đòi vợ chồng ông La Anh D và bà Huỳnh Thị Liên H trả lại ngôi nhà 29 Lê Lợi, có diện tích 62,5m2 mà nguyên đơn cho ở nhờ từ năm 1995. Bị đơn không đồng ý trả lại nhà với lý do đã được vợ chồng bà X tặng cho ngôi nhà này (chồng bà X là chú của bà H), đã sửa chữa lại nhà; do đó, có yêu cầu phản tố được công nhận sở hữu nhà. Bản án sơ thẩm lần đầu về vụ án này đã bị cấp phúc thẩm hủy để xét xử sơ thẩm lại. Tại bản án sơ thẩm số 22/2015/DS-ST ngày 17/7/2015, TAND tỉnh Hậu Giang đã chấp nhận yêu cầu đòi nhà của nguyên đơn. Bị đơn kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm số 122/2019/DS-PT ngày 16/4/2019, TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã sửa bản án sơ thẩm: Công nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở cho vợ chồng ông D bà H; nguyên đơn được vợ chồng ông D bà H thanh toán giá trị quyền sử dụng đất 315 triệu đồng. Nguyên đơn có yêu cầu giám đốc thẩm. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 11/6/2020, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị, hủy Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao xét xử sơ thẩm lại. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Bản án phúc thẩm nhận định “ông D và bà H đăng ký hộ khẩu thường trú tại nhà này từ năm 1995, hiên nay đang có doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo giấy phép đăng ký kinh doanh”… “ông D và bà H đang sinh sống ổn định tại địa chỉ trên nên nhu cầu về chỗ ở của ông D và bà H là có thật” để chấp nhận yêu cầu của ông D, bà H được nhận nhà và hoàn giá trị đất cho nguyên đơn là không đúng thực tế và không có cơ sở pháp lý. Từ trước khi xét xử sơ thẩm thì ông D đã có đơn có nội dung “vợ tôi đi Mỹ và chưa có quốc tịch Mỹ”, và ông D cũng đã cho thuê ngôi nhà đang tranh chấp. Tòa án cấp phúc thẩm cũng nhận định không có cơ sở xác định ông D và bà H được tặng cho nhà. Do vậy, pháp luật áp dụng để giải quyêt tranh chấp phải là pháp luật về ở nhờ nhà ở. Là người ở nhờ thì không thể căn cứ vào việc có hộ khẩu, sinh sống ổn định, có nhu cầu về nhà ở để giao quyền sở hữu như trường hợp chia tài sản thuộc sở hữu chung hay chia thừa kế. Những trường hợp đặc biệt người ở nhờ không phải trả lại toàn bộ nhà phải là những trường hợp được pháp luật quy định rõ. Ví dụ: Trường hợp ở nhờ nhà trước 01/7/1991, theo quy định tại Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước 01/7/1991 thì trong trường hợp người ở nhờ đã làm thêm diện tích nhà ở riêng biệt với nhà cho mượn mà không bị chủ nhà phản đối thì được công nhận sở hữu đối với phần nhà làm thêm và thanh toán cho chủ nhà giá trị quyền sử dụng đất (Điểm c Điều 11). Tuy nhiên, trong vụ án này, việc ở nhờ là từ năm 1995, nhà sửa chữa không hình thành phần nhà ở riêng biệt nên không thuộc trường hợp áp dụng Nghị quyết 58/1998 nêu trên. Hội đồng Thẩm phán nhất trí với nhận định của Kháng nghị giám đốc thẩm là Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng. Tuy nhiên, Hội đồng Thẩm phán không hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án sơ thẩm mà phải hủy cả Bản án sơ thẩm để giao xét xử sơ thẩm lại vì đã có việc thi hành một phần Bản án phúc thẩm. Bản án phúc thẩm còn có một sai lầm là đã tuyên “Việc giao tiền và thủ tục công nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở được thực hiện cùng lúc”. Việc tuyên “thực hiện cùng lúc” là một sai lầm nghiệp vụ đã được lưu ý từ lâu nhưng trong thực tế vẫn xảy ra. Quyết định của Tòa án phải là những mệnh lệnh mà nếu không tự nguyện thi hành thì sẽ cưỡng chế thi hành được. Quyết định “thực hiện cùng lúc” hay “ thi hành cùng một lúc” là quyết định rất khó cưỡng chế thi hành; nếu có một bên đã thi hành một phần nghĩa vụ thì việc “thực hiện cùng lúc” sẽ không thể xảy ra nữa và cơ quan thi hành án có thể từ chối thi hành vì không thể thi hành đúng bản án. Vì vậy, cần phải chấm dứt việc quyết định thi hành cùng một lúc hoặc quyết định thi hành tại một cơ quan thi hành án cụ thể. Chu Minh Theo Congly.vn
Ngày 16/4/2020 TANDTC ban hành Công văn 127/TANDTC-VP về phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Theo đó, Chánh án tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án các Tòa án, Thủ trưởng các đơn vị thuộc TANDTC tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và nghiêm chỉnh thực hiện các nội dung sau: Các Tòa án đặt tại các tỉnh, thành phố thuộc Nhóm có nguy cơ cao gồm 12 địa phương: Hà Nội, Lào Cai, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Ninh Bình, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Thuận, Khánh Hoà, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Hà Tĩnh tiếp tục thực hiện nghiêm Chỉ thị 15/CT-TTg và Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Chỉ thị 02/2020/CT-CA; Công văn 118/TANDTC-VP, Công văn 113/TANDTC-VP. Tiếp tục thực hiện cách ly xã hội kể từ 0 giờ 00 ngày 16/4/2020 đến hết 24 giờ 00 ngày 22/4/2020 trong phạm vi tỉnh, thành phố. Cụ thể như sau: - Tiếp tục tạm dừng việc xét xử, giải quyết các vụ án, vụ việc theo Chỉ thị 02/2020/CT-CA ngày 10/3/2020, trừ các vụ án, vụ việc đã hết thời hạn giải quyết (kể cả thời gian gia hạn) và bắt buộc phải mở phiên tòa, phiên họp thì thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng, nhưng phải thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch. - Công chức, người lao động của các Tòa án tiếp tục sử dụng công nghệ thông tin để làm việc tại nhà, trừ các trường hợp cần thiết theo yêu cầu của Thủ trưởng đơn vị. - Các tỉnh, thành phố phát sinh ổ dịch mới được Ban chỉ đạo quốc gia Phòng chống dịch COVID-19 công bố bổ sung thuộc Nhóm có nguy cơ cao thì Chánh án Tòa án tại địa phương đó chủ động thực hiện các yêu cầu phòng chống dịch nêu trên. Các Tòa án đặt tại các tỉnh, thành phố thuộc Nhóm có nguy cơ, Nhóm nguy cơ thấp tiếp tục thực hiện Chỉ thị 15/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Kể từ 0 giờ 00 ngày 16/4/2020, thực hiện nghiêm các nội dung sau đây: - Tổ chức việc xét xử, giải quyết các vụ án, vụ việc theo theo quy định của pháp luật tố tụng, nhưng phải thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch. Chỉ triệu tập những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tham dự phiên tòa, phiên họp. - Hạn chế việc tổ chức các phiên tòa, phiên họp tập trung trên 20 người trong một phòng; yêu cầu thực hiện giữ khoảng cách trên 2m giữa người với người trong phòng xét xử, nơi làm việc. Bố trí phòng xét xử trực tuyến để bảo đảm khoảng cách tối thiểu giữa người với người. Xem chi tiết công văn tại file đính kèm:
Tòa án vẫn tiến hành xét xử các vụ án, vụ việc trong trường hợp bắt buộc phải mở phiên tòa từ 31/3
Tòa án Nhân Dân Tối cao vừa ban hành Công văn 113/TANDTC-VP về việc phòng, chống dịch bệnh COVID-19 (30/03/2020), theo đó từ 31/3/ đến 15/4: - Đối với vụ án, vụ việc đã hết thời hạn giải quyết kể cả trường hợp gia hạn và bắt buộc phải mở phiên tòa thì được phép mở phiên tòa theo quy định. - Tuy nhiên các phiên tòa, phiên họp tập trung không quá 20 người trong một phòng, và phải giữ khoảng cách 2m theo quy định. - Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải đeo khẩu trang, đo thân nhiệt, rửa tay sát khuẩn trước khi vào phiên tòa. - Cán bộ, công chức tòa án phải luôn đeo khẩu trang khi làm việc và khi đi ra ngoài - Công chức tòa án hạn chế tiếp xúc xã hội, hạn chế tụ tập đông người, hạn chế đi lại giữa các tỉnh thành. >>> Xem toàn văn Công văn 113 tại file đính kèm
Luật sư và Kiểm sát viên sẽ "ngang hàng" trong phiên tòa hình sự
Tòa án Nhân dân tối cao đang xây dựng dự thảo thông tư quy định về phòng xử án. Tại bản dự thảo lần này, TANDTC đề xuất nhiều quy định. Đơn cử như sau: I. Về hình thức phòng xử án: - Phòng xử án phải bảo đảm không gian để tiến hành xét xử và có hàng rào ngăn cách giữa khu vực của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng với khu vực của người tham dự phiên tòa; - Tường trong phòng xử án có màu vàng, riêng tường phía sau vị trí của Hội đồng xét xử ốp gỗ màu nâu sẫm, giống với màu bàn của Hội đồng xét xử. - Phòng xử án được bố trí hai bục, trừ trường hợp phòng xử án đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên. + Bục của Hội đồng xét xử có kích thước rộng 2.3m, cao 0.7m. + Bục thứ hai là vị trí của những người tiến hành tố tụng khác và người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa. - Phòng xử án phải bố trí lối đi riêng của Hội đồng xét xử và lối đi của những người tiến hành tố tụng khác, người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa. - Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được treo ở chính giữa, phía trên vị trí của Hội đồng xét xử. Tùy theo không gian của phòng xử án mà sử dụng Quốc huy có kích thước đường kính là 0.8m, 0.9m hoặc 1.0m cho phù hợp. Chất liệu Quốc huy làm bằng gỗ, nhựa hoặc kim loại. - Bảng Nội quy phòng xử án có nền màu xanh, chữ màu trắng, được treo trên tường phía ngoài cửa ra vào và trên tường trong phòng xử án. - Biển chức danh những người tiến hành tố tụng có nền màu đỏ, chữ màu vàng. Biển ghi tư cách tham gia tố tụng của những người khác có nền màu xanh, chữ màu trắng. - Đối với trường hợp xét xử lưu động thì phòng xử án sử dụng phông nền màu xanh phía sau vị trí của Hội đồng xét xử, bàn của những người tiến hành tố tụng được phủ khăn có màu giống với màu phông nền. Phòng xử án lưu động phải treo Quốc huy và Bảng Nội quy phiên tòa theo quy định. - Tùy theo từng loại vụ việc mà bố trí vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa, phiên họp; bục khai báo; hàng rào ngăn cách trong phòng xử án theo quy định II. Sơ đồ bố trí của phiên Tòa hình sự: Như vậy, theo sơ đồ bố trí này ta có thể thấy vai trò của Luật sư và Kiểm sát viên trong phiên tòa hình sự đã được đặt ngang hàng. Ngoài ra, Dự thảo thông tư còn quy định về sơ đồ của của các phiên Tòa hành chính, dân sự... Các bạn xem chi tiết tại file đính kèm.
MỚI: Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)
Ngày 24/06/2024, Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) với 94,25% tổng số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) được thông qua gồm 9 chương, với 152 điều, có hiệu lực từ ngày 01/01/2025. Luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân; bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân. (1) Tổ chức và thẩm quyền thành lập các Tòa án nhân dân Tổ chức các Tòa án nhân tiếp tục giữ nguyên quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện như Luật hiện hành, không đổi thành Tòa án nhân dân tỉnh thành Tòa án nhân dân phúc thẩm và Tòa án nhân dân huyện thành Tòa án nhân dân sơ thẩm. Tổ chức của Tòa án nhân dân bao gồm: + Tòa án nhân dân tối cao. + Tòa án nhân dân cấp cao. + Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. + Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. + Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt Hành chính; Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt Sở hữu trí tuệ; Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản (sau đây gọi chung là Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt). + Tòa án quân sự Trung ương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực (sau đây gọi chung là Tòa án quân sự). Xem cập nhật mới nhất của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân Bài được viết theo dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7):https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/25/luat-to-chuc-toa-an-nhan-dan.doc (2) Tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp - Người từ đủ 16 tuổi trở lên được tham dự phiên tòa xét xử công khai theo quy định của pháp luật. Người dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập đến phiên tòa. - Người tham dự phiên tòa, phiên họp phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội quy phiên tòa, phiên họp. Đối với việc ghi âm, ghi hình, theo khoản 3 và khoản 4 Điều 141 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) quy định như sau: - Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử tại phiên tòa, phiên họp phải được sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa; việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của người tiến hành tố tụng khác, người tham gia phiên tòa, phiên họp thì phải được sự đồng ý của họ và sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa, phiên họp. Việc ghi hình ảnh tại phiên tòa, phiên họp chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp và tuyên án, công bố quyết định. - Tòa án tiến hành ghi âm lời nói, ghi hình ảnh toàn bộ diễn biến phiên tòa, phiên họp trong trường hợp cần thiết để phục vụ nhiệm vụ chuyên môn. Việc sử dụng, cung cấp kết quả ghi âm lời nói, ghi hình ảnh diễn biến phiên tòa được thực hiện theo quy định của pháp luật. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết khoản 4. - Người tham dự phiên tòa, phiên họp không được truyền phát trực tiếp, trực tuyến; không được đưa tin sai sự thật; không đưa tin làm ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan của Tòa án; không được vi phạm quyền con người của bị cáo, bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác trong vụ án; không được vi phạm quy định về giữ bí mật theo quy định của pháp luật căn cứ tại khoản 5 Điều 141. (3) Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án Tại Điều 17 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) đã đề cập đến bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án như sau: - Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. - Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được bảo đảm thi hành theo quy định của pháp luật. - Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nếu có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, kết luận không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, vụ việc phải do Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định và khắc phục theo trình tự, thủ tục luật định. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan không thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xem xét xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Xem cập nhật mới nhất của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân Bài được viết theo dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7): https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/25/luat-to-chuc-toa-an-nhan-dan.doc Tóm lại, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) được thông qua gồm 9 chương, với 152 điều, giữ nguyên tên gọi Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân huyện. Bên cạnh đó quy định việc ghi hình ảnh tại phiên tòa, phiên họp chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp và tuyên án, công bố quyết định. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2025.
Đối tượng nào được tham gia làm hội thẩm nhân dân trong một phiên tòa?
Hội thẩm nhân dân được hiểu là Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án. Để trở thành Hội thẩm nhân dân phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 85 Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014 như sau: Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực. Có kiến thức pháp luật. Có hiểu biết xã hội. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với một số vụ án có tính chất khác nhau mà tiêu chí lựa chọn Hội thẩm nhân dân sẽ khác nhau như: Vụ án dân sự: Điều 63 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em. Đối với vụ án lao động thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác trong tổ chức đại diện tập thể lao động hoặc người có kiến thức về pháp luật lao động. Vụ án Hình sự: Điều 423 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định: Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi. Hội thẩm nhân dân có trách nhiệm gì trong các phiên tòa? Căn cứ Điều 89 Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014 quy định trách nhiệm của hội thẩm nói chung và hội thẩm nhân dân nói riêng như sau: Trung thành với Tổ quốc, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Tham gia xét xử theo sự phân công của Chánh án Tòa án mà không được từ chối, trừ trường hợp có lý do chính đáng hoặc do luật tố tụng quy định. Độc lập, vô tư, khách quan trong xét xử, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật. Tích cực học tập để nâng cao kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử. Chấp hành nội quy, quy chế của Tòa án. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật.
Bị cáo dưới 18 tuổi có được ngồi gần cha mẹ trong phiên toà được hay không?
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần, chưa thể tham gia đầy đủ các quan hệ xã hội do họ có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý và thể chất. Từ việc chưa phát triển đầy đủ này, pháp luật đã có những quy định điều chỉnh riêng đối với họ. Căn cứ Điều 6 Thông tư 01/2017/TT-TANDTC quy định về phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên như sau: 1. Vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa, phiên họp trong phòng xử án được bố trí trên cùng một mặt phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn tròn; tường trong phòng xử án có màu xanh. Người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. 2. Bàn, ghế trong phòng xử án được thiết kế theo kiểu dáng bàn, ghế văn phòng. 3. Ngoài các quy định tại điều này, phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên phải bảo đảm quy định tại Điều 4 và Điều 5 Thông tư này. Tại Khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người chưa thành niên như sau: 1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Theo Điều 136 Bộ luật dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau: 1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. 2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. 3. Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. 4. Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, cha mẹ là người đại diện của người dưới 18 tuổi nên bị cáo có thể ngồi gần với cha mẹ của mình khi tham gia tố tụng tại phiên toà.
Cá nhân cố ý vắng mặt xét xử theo giấy triệu tập hợp lệ có thể bị phạt đến 20 triệu đồng
Ngày 15/08/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa cho lấy ý kiến dự thảo Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (dự thảo Pháp lệnh). Nội dung dự thảo lần này ban hành chế tài đối với những hành vi cản trở hoạt động tố tụng được xem là cần thiết. Qua đó, đảm bảo sự tôn nghiêm và quy chuẩn trong hoạt động tố tụng. Theo đó, tại Điều 14 dự thảo Pháp lệnh quy định chi tiết các hành vi làm cản trở hoạt động tố tụng. Trong đó, cá nhân có hành vi vi phạm quy định về sự có mặt theo giấy triệu tập của người tiến tố tụng sẽ được áp dụng theo các mức phạt cho từng hành vi cụ thể như sau: Đối với người có hành vi vi phạm quy định về lệnh triệu tập của phiên tòa lần đầu thì có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 ngàn - 5 triệu đồng. Trong thực tế, các trường hợp cố tình không tham gia phiên tòa nhằm mục đích hoãn phiên tòa qua đó kéo dài thời gian tiến hành tố tụng. Điều này làm việc thực hiện giải quyết vụ việc, vụ án gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, người tham gia tố tụng đã được cơ quan, người tiến hành tố tụng triệu tập hợp lệ nhưng cố ý không chấp hành mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và nếu sự vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc thu thập, xác minh chứng cứ hoặc giải quyết vụ án. Mức phạt này nhằm cảnh cáo người tham gia tố tụng cố ý vi phạm, qua đó nhắc nhở cần tuân thủ các quy định và đảm bảo việc tiến hành tố tụng được diễn ra kịp thời và nhanh chóng. Tại lần triệu tập hợp lệ thứ hai, người tham gia tố tụng cố ý vắng mặt tiếp mà không phải vì lý do chính đáng hay trở ngại khách quan thì phạt tiền từ 5 triệu - 10 triệu đồng. Mức phạt này tương đối cao đối với người tham gia tố tụng đã được cơ quan, người tiến hành tố tụng triệu tập nhưng từ chối tham gia xét xử. Việc tăng mức phạt này nhằm răn đe đối với hành vi tái phạm. Thực trạng này diễn ra không ít trong hoạt động tố tụng, điều này làm gián đoạn thời gian tố tụng dẫn đến ùn ứ việc giải quyết các vấn đề khác. Bên cạnh 02 mức phạt mà người tham gia tố tụng vi phạm lệnh triệu tập trong điều kiện thông thường thì Pháp lệnh đặc biệt xử lý nghiêm người có hành vi đe dọa, hành hung hoặc lợi dụng sự lệ thuộc nhằm cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đến phiên tòa, phiên họp theo triệu tập của Tòa án. Qua đó bị phạt tiền từ 10 triệu - 20 triệu đồng đối với người có hành vi như trên. Lưu ý: Tại khoản 2 Điều 6 dự thảo Pháp lệnh quy định đối với người vi phạm là tổ chức thì gấp 2 lần so với cá nhân. Hiện hành, tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định việc tiến hành hoạt động động tố tụng trong các trường hợp đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt theo lệnh triệu tập được thực hiện như sau: Từ chối tham gia lệnh triệu tập phiên tòa lần một Trong lần triệu tập hợp lệ lần thứ nhất của Tòa án, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa. Trong trường hợp người đó vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Như vậy, theo quy định trên thông thường người tham gia tố tụng dù có lý do hay vắng mặt không thông báo thì vẫn phải hoãn phiên tòa và triệu tập lại ở lần tiếp theo. Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc hoãn phiên tòa. Từ chối tham gia lệnh triệu tập phiên tòa lần hai Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau: (1) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật. (2) Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ. (3) Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật. (4) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật. (5) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ. Như vậy, pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều bất cập trong trường hợp người tham gia hoạt động tố tụng lợi dụng việc vắng mặt nhằm gián đoạn kéo dài thời gian tranh tụng mà chưa có quy định xử phạt các hành vi trên. Điều này gây ra nhiều thiệt hại và mất đi sự tôn nghiêm của quy định về tố tụng. Để hạn chế thực trạng trên thì dự thảo Pháp lệnh đã ban hành một số chế tài nhằm thực thi hoạt động tố tụng được diễn ra nhanh chóng giúp người dân tự ý thức hơn về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng của mình.
Đập bàn, gây rối tại Tòa án thậm chí có thể bị phạt tù!
Thi thoảng trong những vụ án đình đám mà các bên tham gia phiên tòa có chức quyền, địa vị, báo chí lại ghi được hình ảnh họ đập bàn, la lối ngay tại phiên xét xử trước thẩm phán, viện kiểm sát, và những người có mặt tại Tòa. Thực tế hành vi này có thể bị phạt hành chính và thậm chí là truy cứu trách nhiệm hình sự. Đập bàn, gây rối tại phiên tòa - Minh họa Điều 391 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (BLHS) quy định hành vi "Gây rối trật tự phiên tòa" được hiểu là hành vi thóa mạ, xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm thành viên Hội đồng xét xử, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác hoặc người tham gia phiên tòa, phiên họp hoặc có hành vi đập phá tài sản tại phiên tòa nếu không thuộc trường hợp "Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản". Tại Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (cụ thể là Điều 256) có quy định về Nội quy phiên tòa, theo đó mọi người trong phòng xử án phải tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên trên thực tế, việc tuân thủ nội quy phiên tòa của người tham gia còn có nhiều hạn chế, vẫn còn xảy ra tình trạng gây mất trật tự tại phiên tòa, cá biệt có nhiều trường hợp có hành vi "Gây rối trật tự phiên tòa", xúc phạm, hành hung Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tòa, phiên họp. Việc xử lý đối với những hành vi này đôi khi vẫn còn nhiều hạn chế do các quy định pháp luật về thủ tục xử lý, thẩm quyền xử lý còn chưa thực sự rõ ràng. Tại Điều 467 Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định: “1. Người vi phạm nội quy phiên tòa thì tùy tính chất, mức độ vi phạm có thể bị Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật. 2. Chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định buộc người vi phạm rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính. Cơ quan công an có nhiệm vụ bảo vệ trật tự phiên tòa hoặc người có nhiệm vụ bảo vệ trật tự phiên tòa thi hành quyết định của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính người gây rối trật tự phiên tòa. 3. Trường hợp hành vi của người vi phạm nội quy phiên tòa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Hội đồng xét xử có quyền khởi tố vụ án hình sự. 4. Quy định tại Điều này cũng được dụng đối với người có hành vi vi phạm tại phiên họp của Tòa án”. Bộ Công an cũng ban hành Thông tư 13/2016/TT-BCA Quy định thực hiện nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa của lực lượng Công an nhân dân (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 117/2020/TT-BCA). Trong đó có nêu rõ nguyên tắc, nhiệm vụ, trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa của lực lượng Công an nhân dân. Nếu hành vi gây rối tại tòa chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự: Theo quy định tại Điểm d Khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự an toàn xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống, chống bạo lực gia đình thì hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa, nơi thi hành án hoặc hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động xét xử, thi hành án thì có thể bị xử phạt hành chính. Cụ thể là bị xử phạt mức tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng tùy vào tính chất và mức độ của hành vi gây rối.
Một số vấn đề nghiệp vụ từ các phiên tòa tháng 6/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
Chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất; Tránh nhầm lẫn quyền của đồng chủ sở hữu với quyền của người mượn tài sản, là những vấn đề được đề cập trong phiên họp Hội đồng Thẩm phán Tháng 6/2020. 1. Chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất Ông Nguyễn Văn K khởi kiện yêu cầu buộc vợ chồng ông Lê Chung Th bà Đỗ Thị L thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 01/9/2013, đã được UBND xã chứng thực ngày 17/9/2010. Theo hợp đồng này thì vợ chồng ông Th bà L chuyển nhượng cho ông K diện tích đất 203 m2 với giá 3 tỷ đồng và đã nhận đủ tiền. Vợ chồng ông Th bà L khai rằng việc ký hợp đồng chuyển nhượng chỉ để bảo đảm cho khoản tiền vay 180 triệu đồng của ông K nên yêu cầu tuyên bố hợp đồng ký ngày 01/9/2013 vô hiệu do giả tạo. Bản án sơ thẩm (số 02/2014/DS-ST ngày 20/2/2014 của TAND huyện Văn Giang) và Bản án phúc thẩm (số 44/2014/DS-PT ngày 12/8/2014 của TAND tỉnh Hưng Yên) đều chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn giao đất và cả ngôi nhà có diện tích 84 m2 trên đất chuyển nhượng cho nguyên đơn; buộc nguyên đơn thanh toán giá trị của ngôi nhà cho bị đơn. Một phiên họp Hội đồng Thẩm phán TANDTC Bản án phúc thẩm bị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 100/2017/DS-GĐT, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội đã không chấp nhận kháng nghị. Vợ chồng ông Th và bà L tiếp tục có yêu cầu giám đốc thẩm. Chánh án TAND tối cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 10/6/2020, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị; hủy Quyết định giám đốc thẩm số 100/2017/DS-GĐT, Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm; giao cho cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Hội đồng Thẩm phán xác định các cấp xét xử trước đó đã có 3 sai lầm: - Xác định Hợp đồng chuyển nhượng không có dấu hiệu giả tạo và bên chuyển nhượng đã nhận hết tiền là đánh giá chứng cứ không đúng. Hợp đồng này có đủ căn cứ xác định là giả tạo vì giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng quá chênh lệch so với giá thực tế mà không xác định được lý do của sự chênh lệch này (giá trong hợp đồng là 3 tỷ đồng trong khi giá thực tế được định giá chỉ là 630 triệu đồng). Hợp đồng ghi “việc thanh toán số tiền trên do hai bên tự thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật” thì phải hiểu chưa có việc giao tiền trước khi ký hợp đồng và việc giao nhận sau này phải có chứng từ riêng về giao nhận tiền. Thực tế, ông K không xuất trình được chứng cứ khác về giao nhận tiền. - Việc buộc thực hiện hợp đồng là không có cơ sở pháp lý. Việc buộc thực hiện hợp đồng phải trên cơ sở xác định hợp đồng đã có hiệu lực. Hợp đồng này mới chỉ có chứng thực, chưa có đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền là chưa có hiệu lực (Theo quy định tại Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003, Điều 692 BLDS năm 2005). - Hợp đồng chuyển nhượng bị vô hiệu vì có đối tượng không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 411 BLDS năm 2005. Chỉ cần có một trong các vi phạm nêu ở trên thì Hợp đồng ngày 01/9/2003 đã là hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, cần lưu ý về trường hợp vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được vì đây là trường hợp có ý kiến khác nhau, qua thảo luận Hội đồng Thẩm phán mới nhất trí với Kháng nghị của Chánh án TAND tối cao. Trong vụ án này, trên đất chuyển chượng có nhà ở nhưng các bên không thỏa thuận về nhà ở khi thỏa thuận về chuyển nhượng đất. Trong trường hợp thi hành án, đã có quy định về việc trên đất bị phát mại có tài sản không bị kê biên, kể cả tài sản của người khác (không phải của chủ sử dụng đất) thì Cơ quan thi hành án vẫn được xử lý cả tài sản trên đất (Điều 113 Luật Thi hành án dân sự). Tuy nhiên, trong giao dịch chuyển nhượng thông thường (không phải là thi hành án) thì pháp luật chưa có quy định về trường hợp chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản trên đất. Khi không có thỏa thuận về tài sản trên đất thì quyền sử dụng đất không thể chuyển giao cho người nhận chuyển nhượng sử dụng bình thường và đầy đủ quyền sử dụng của mình. Vì vậy, trong trường hợp hợp đồng không có vi phạm khác, chỉ riêng việc không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất thì cũng là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được. 2. Tránh nhầm lẫn quyền của đồng chủ sở hữu với quyền của người mượn tài sản Nguyên đơn là bà Lý Thị X khởi kiện đòi vợ chồng ông La Anh D và bà Huỳnh Thị Liên H trả lại ngôi nhà 29 Lê Lợi, có diện tích 62,5m2 mà nguyên đơn cho ở nhờ từ năm 1995. Bị đơn không đồng ý trả lại nhà với lý do đã được vợ chồng bà X tặng cho ngôi nhà này (chồng bà X là chú của bà H), đã sửa chữa lại nhà; do đó, có yêu cầu phản tố được công nhận sở hữu nhà. Bản án sơ thẩm lần đầu về vụ án này đã bị cấp phúc thẩm hủy để xét xử sơ thẩm lại. Tại bản án sơ thẩm số 22/2015/DS-ST ngày 17/7/2015, TAND tỉnh Hậu Giang đã chấp nhận yêu cầu đòi nhà của nguyên đơn. Bị đơn kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm số 122/2019/DS-PT ngày 16/4/2019, TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã sửa bản án sơ thẩm: Công nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở cho vợ chồng ông D bà H; nguyên đơn được vợ chồng ông D bà H thanh toán giá trị quyền sử dụng đất 315 triệu đồng. Nguyên đơn có yêu cầu giám đốc thẩm. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 11/6/2020, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị, hủy Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao xét xử sơ thẩm lại. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Bản án phúc thẩm nhận định “ông D và bà H đăng ký hộ khẩu thường trú tại nhà này từ năm 1995, hiên nay đang có doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo giấy phép đăng ký kinh doanh”… “ông D và bà H đang sinh sống ổn định tại địa chỉ trên nên nhu cầu về chỗ ở của ông D và bà H là có thật” để chấp nhận yêu cầu của ông D, bà H được nhận nhà và hoàn giá trị đất cho nguyên đơn là không đúng thực tế và không có cơ sở pháp lý. Từ trước khi xét xử sơ thẩm thì ông D đã có đơn có nội dung “vợ tôi đi Mỹ và chưa có quốc tịch Mỹ”, và ông D cũng đã cho thuê ngôi nhà đang tranh chấp. Tòa án cấp phúc thẩm cũng nhận định không có cơ sở xác định ông D và bà H được tặng cho nhà. Do vậy, pháp luật áp dụng để giải quyêt tranh chấp phải là pháp luật về ở nhờ nhà ở. Là người ở nhờ thì không thể căn cứ vào việc có hộ khẩu, sinh sống ổn định, có nhu cầu về nhà ở để giao quyền sở hữu như trường hợp chia tài sản thuộc sở hữu chung hay chia thừa kế. Những trường hợp đặc biệt người ở nhờ không phải trả lại toàn bộ nhà phải là những trường hợp được pháp luật quy định rõ. Ví dụ: Trường hợp ở nhờ nhà trước 01/7/1991, theo quy định tại Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước 01/7/1991 thì trong trường hợp người ở nhờ đã làm thêm diện tích nhà ở riêng biệt với nhà cho mượn mà không bị chủ nhà phản đối thì được công nhận sở hữu đối với phần nhà làm thêm và thanh toán cho chủ nhà giá trị quyền sử dụng đất (Điểm c Điều 11). Tuy nhiên, trong vụ án này, việc ở nhờ là từ năm 1995, nhà sửa chữa không hình thành phần nhà ở riêng biệt nên không thuộc trường hợp áp dụng Nghị quyết 58/1998 nêu trên. Hội đồng Thẩm phán nhất trí với nhận định của Kháng nghị giám đốc thẩm là Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng. Tuy nhiên, Hội đồng Thẩm phán không hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án sơ thẩm mà phải hủy cả Bản án sơ thẩm để giao xét xử sơ thẩm lại vì đã có việc thi hành một phần Bản án phúc thẩm. Bản án phúc thẩm còn có một sai lầm là đã tuyên “Việc giao tiền và thủ tục công nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở được thực hiện cùng lúc”. Việc tuyên “thực hiện cùng lúc” là một sai lầm nghiệp vụ đã được lưu ý từ lâu nhưng trong thực tế vẫn xảy ra. Quyết định của Tòa án phải là những mệnh lệnh mà nếu không tự nguyện thi hành thì sẽ cưỡng chế thi hành được. Quyết định “thực hiện cùng lúc” hay “ thi hành cùng một lúc” là quyết định rất khó cưỡng chế thi hành; nếu có một bên đã thi hành một phần nghĩa vụ thì việc “thực hiện cùng lúc” sẽ không thể xảy ra nữa và cơ quan thi hành án có thể từ chối thi hành vì không thể thi hành đúng bản án. Vì vậy, cần phải chấm dứt việc quyết định thi hành cùng một lúc hoặc quyết định thi hành tại một cơ quan thi hành án cụ thể. Chu Minh Theo Congly.vn
Ngày 16/4/2020 TANDTC ban hành Công văn 127/TANDTC-VP về phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Theo đó, Chánh án tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án các Tòa án, Thủ trưởng các đơn vị thuộc TANDTC tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và nghiêm chỉnh thực hiện các nội dung sau: Các Tòa án đặt tại các tỉnh, thành phố thuộc Nhóm có nguy cơ cao gồm 12 địa phương: Hà Nội, Lào Cai, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Ninh Bình, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Thuận, Khánh Hoà, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Hà Tĩnh tiếp tục thực hiện nghiêm Chỉ thị 15/CT-TTg và Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Chỉ thị 02/2020/CT-CA; Công văn 118/TANDTC-VP, Công văn 113/TANDTC-VP. Tiếp tục thực hiện cách ly xã hội kể từ 0 giờ 00 ngày 16/4/2020 đến hết 24 giờ 00 ngày 22/4/2020 trong phạm vi tỉnh, thành phố. Cụ thể như sau: - Tiếp tục tạm dừng việc xét xử, giải quyết các vụ án, vụ việc theo Chỉ thị 02/2020/CT-CA ngày 10/3/2020, trừ các vụ án, vụ việc đã hết thời hạn giải quyết (kể cả thời gian gia hạn) và bắt buộc phải mở phiên tòa, phiên họp thì thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng, nhưng phải thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch. - Công chức, người lao động của các Tòa án tiếp tục sử dụng công nghệ thông tin để làm việc tại nhà, trừ các trường hợp cần thiết theo yêu cầu của Thủ trưởng đơn vị. - Các tỉnh, thành phố phát sinh ổ dịch mới được Ban chỉ đạo quốc gia Phòng chống dịch COVID-19 công bố bổ sung thuộc Nhóm có nguy cơ cao thì Chánh án Tòa án tại địa phương đó chủ động thực hiện các yêu cầu phòng chống dịch nêu trên. Các Tòa án đặt tại các tỉnh, thành phố thuộc Nhóm có nguy cơ, Nhóm nguy cơ thấp tiếp tục thực hiện Chỉ thị 15/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Kể từ 0 giờ 00 ngày 16/4/2020, thực hiện nghiêm các nội dung sau đây: - Tổ chức việc xét xử, giải quyết các vụ án, vụ việc theo theo quy định của pháp luật tố tụng, nhưng phải thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch. Chỉ triệu tập những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tham dự phiên tòa, phiên họp. - Hạn chế việc tổ chức các phiên tòa, phiên họp tập trung trên 20 người trong một phòng; yêu cầu thực hiện giữ khoảng cách trên 2m giữa người với người trong phòng xét xử, nơi làm việc. Bố trí phòng xét xử trực tuyến để bảo đảm khoảng cách tối thiểu giữa người với người. Xem chi tiết công văn tại file đính kèm:
Tòa án vẫn tiến hành xét xử các vụ án, vụ việc trong trường hợp bắt buộc phải mở phiên tòa từ 31/3
Tòa án Nhân Dân Tối cao vừa ban hành Công văn 113/TANDTC-VP về việc phòng, chống dịch bệnh COVID-19 (30/03/2020), theo đó từ 31/3/ đến 15/4: - Đối với vụ án, vụ việc đã hết thời hạn giải quyết kể cả trường hợp gia hạn và bắt buộc phải mở phiên tòa thì được phép mở phiên tòa theo quy định. - Tuy nhiên các phiên tòa, phiên họp tập trung không quá 20 người trong một phòng, và phải giữ khoảng cách 2m theo quy định. - Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải đeo khẩu trang, đo thân nhiệt, rửa tay sát khuẩn trước khi vào phiên tòa. - Cán bộ, công chức tòa án phải luôn đeo khẩu trang khi làm việc và khi đi ra ngoài - Công chức tòa án hạn chế tiếp xúc xã hội, hạn chế tụ tập đông người, hạn chế đi lại giữa các tỉnh thành. >>> Xem toàn văn Công văn 113 tại file đính kèm
Luật sư và Kiểm sát viên sẽ "ngang hàng" trong phiên tòa hình sự
Tòa án Nhân dân tối cao đang xây dựng dự thảo thông tư quy định về phòng xử án. Tại bản dự thảo lần này, TANDTC đề xuất nhiều quy định. Đơn cử như sau: I. Về hình thức phòng xử án: - Phòng xử án phải bảo đảm không gian để tiến hành xét xử và có hàng rào ngăn cách giữa khu vực của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng với khu vực của người tham dự phiên tòa; - Tường trong phòng xử án có màu vàng, riêng tường phía sau vị trí của Hội đồng xét xử ốp gỗ màu nâu sẫm, giống với màu bàn của Hội đồng xét xử. - Phòng xử án được bố trí hai bục, trừ trường hợp phòng xử án đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên. + Bục của Hội đồng xét xử có kích thước rộng 2.3m, cao 0.7m. + Bục thứ hai là vị trí của những người tiến hành tố tụng khác và người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa. - Phòng xử án phải bố trí lối đi riêng của Hội đồng xét xử và lối đi của những người tiến hành tố tụng khác, người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa. - Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được treo ở chính giữa, phía trên vị trí của Hội đồng xét xử. Tùy theo không gian của phòng xử án mà sử dụng Quốc huy có kích thước đường kính là 0.8m, 0.9m hoặc 1.0m cho phù hợp. Chất liệu Quốc huy làm bằng gỗ, nhựa hoặc kim loại. - Bảng Nội quy phòng xử án có nền màu xanh, chữ màu trắng, được treo trên tường phía ngoài cửa ra vào và trên tường trong phòng xử án. - Biển chức danh những người tiến hành tố tụng có nền màu đỏ, chữ màu vàng. Biển ghi tư cách tham gia tố tụng của những người khác có nền màu xanh, chữ màu trắng. - Đối với trường hợp xét xử lưu động thì phòng xử án sử dụng phông nền màu xanh phía sau vị trí của Hội đồng xét xử, bàn của những người tiến hành tố tụng được phủ khăn có màu giống với màu phông nền. Phòng xử án lưu động phải treo Quốc huy và Bảng Nội quy phiên tòa theo quy định. - Tùy theo từng loại vụ việc mà bố trí vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa, phiên họp; bục khai báo; hàng rào ngăn cách trong phòng xử án theo quy định II. Sơ đồ bố trí của phiên Tòa hình sự: Như vậy, theo sơ đồ bố trí này ta có thể thấy vai trò của Luật sư và Kiểm sát viên trong phiên tòa hình sự đã được đặt ngang hàng. Ngoài ra, Dự thảo thông tư còn quy định về sơ đồ của của các phiên Tòa hành chính, dân sự... Các bạn xem chi tiết tại file đính kèm.