Đề xuất không truy cứu trách nhiệm khi nhà khoa học nghiên cứu thất bại
Có các công trình nghiên cứu khoa học thành công muộn, có công trình không thành công, nhưng bản chất của nghiên cứu là tìm cái mới và thử nghiệm, phải chấp nhận rủi ro trong khoa học. Chấp nhận rủi ro, khuyến khích các nhà khoa học theo đuổi đam mê Tại cuộc họp báo thường kỳ Quý I/2024 của Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức vào ngày 10/4 vừa qua. Ông Nguyễn Hoàng Giang - Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, hiện cơ chế chính sách còn một số điểm nghẽn, trong đó có việc chấp nhận độ trễ, rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Ông giải thích, rủi ro được hiểu là khi dùng ngân sách nhà nước nghiên cứu, quá trình thực hiện đúng quy định, tuân thủ các bước hội đồng nhưng không ra được kết quả. Theo đó, nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới. Việc nghiên cứu khoa học phải có thời gian và ngân sách, thậm chí có nhiều công trình nghiên cứu khoa học trên thế giới tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng nếu nghiên cứu thành công, nền khoa học công nghệ ở nước đó sẽ phát triển 1 bước nhảy vọt, kéo theo sự phát triển kinh tế - xã hội. Ông Giang chia sẻ: “chỉ có chấp nhận rủi ro mới khuyến khích được các nhà khoa học tham gia nghiên cứu. Đây là việc Bộ Khoa học và Công nghệ rất quan tâm và mong muốn sửa đổi Luật càng nhanh càng tốt”. Ông cho biết, năm 2024, Bộ tập trung sửa đổi toàn diện Luật và các văn bản liên quan với mục tiêu đưa khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo thành động lực mới trong tăng trưởng kinh tế. Ông Giang cho rằng, công trình nghiên cứu đến tiến độ theo quy định nhưng chưa đạt kết quả thì trước đây xem như vậy là thất bại, nhưng hiện nay việc đó đã được chấp nhận với cơ chế mới nếu được thực hiện. Một dự án nghiên cứu khoa học không mang đến kết quả như mong muốn không có nghĩa là dự án đó thất bại. Nghiên cứu hôm nay nhưng 10 năm sau mới có kết quả là bình thường. Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ - Nguyễn Hoàng Giang Sửa đổi các điều khoản trong Luật Bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng dẫn nhiều văn bản cho thấy sự chỉ đạo xuyên suốt của Bộ Chính trị, Chính phủ trong việc rà soát sửa đổi cơ chế chính sách để thể hiện đặc thù khoa học công nghệ, trong đó có việc chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Bà Diệp cho hay, đặc thù khoa học công nghệ là đi tìm cái mới, hoạt động sáng tạo nhưng quá trình nghiên cứu không đến được kết quả đặt ra. Đây là vấn đề khách quan và thực tế này trong hoạt động khoa học công nghệ quốc tế đã chấp nhận.Tại Luật Khoa học và Công nghệ (2013) đã có quy định liên quan chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, thể hiện tại Điều 23 về ưu đãi trong sử dụng nhân tài. Theo đó người bổ nhiệm chức danh nghiên cứu khoa học sẽ được miễn trách nhiệm dân sự trong trường hợp để xảy ra thiệt hại, hoặc gây rủi ro, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ với nguyên nhân khách quan dù thực hiện đầy đủ quy trình nghiên cứu. Bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ Luật Khoa học và Công nghệ đang sửa đổi sẽ theo hướng mở rộng hơn, đồng bộ với các hệ thống pháp luật có liên quan. Trong đó có nội dung “miễn trách nhiệm dân sự cho các nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu có gây thiệt hại, rủi ro cho nhà nước, hoặc đã thực hiện đầy đủ quy trình nhưng kết quả không đạt thì không phải bồi hoàn kinh phí sử dụng”, bà Diệp nói. Hiện tại việc sửa luật chưa đến khâu soạn thảo các nội dung cụ thể mà mới lập dự luật với các nhóm chính sách. Bộ KH-CN đề xuất 15 nhóm chính sách, hồ sơ được gửi xin ý kiến các bộ, ngành, UBND các tỉnh thành, doanh nghiệp, hiệp hội. (Nguồn tổng hợp)
Tiêu chuẩn xét tặng Giải thưởng Nhà nước đối với công trình nghiên cứu khoa học năm 2024?
Giải thưởng Nhà nước để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân trung thành với Tổ quốc, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là tác giả hoặc đồng tác giả của một hoặc nhiều công trình về khoa học và công nghệ đáp ứng tiêu chuẩn quy định của pháp luật. Công trình nghiên cứu khoa học là kết quả của hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Điều kiện xét tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ để xét tặng cho tác giả có công trình đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 7 và tiêu chuẩn quy định tại Điều 11, Điều 12 và Điều 13 của Nghị định 18/2024/NĐ-CP. Theo đó, Đối với tác giả trực tiếp sáng tạo, đóng góp vào giá trị khoa học và công nghệ của công trình; không vi phạm quy định tại Điều 8 Luật Khoa học và công nghệ và đáp ứng điều kiện sau đây - Đối với người Việt Nam: Chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; - Đối với người nước ngoài: Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, pháp luật và phong tục, tập quán tốt đẹp của Việt Nam. - Đối với công trình: + Hồ sơ hợp lệ, được công bố theo quy định (trừ các công trình có nội dung liên quan đến bí mật nhà nước), hoặc được ứng dụng tại Việt Nam; + Thời gian công trình được công bố hoặc ứng dụng trong thực tiễn ít nhất là 03 năm hoặc công trình được ứng dụng đổi mới sáng tạo có hiệu quả ít nhất 01 năm tính đến thời điểm nộp hồ sơ đề nghị xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ. Tiêu chuẩn xét tặng Giải thưởng Nhà nước đối với công trình nghiên cứu khoa học Theo Điều 11 Nghị định 18/2024/NĐ-CP công trình nghiên cứu khoa học được đề nghị tặng Giải thưởng Nhà nước phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau đây: -Công trình có giá trị cao về khoa học + Công trình nghiên cứu khoa học xuất sắc: Bổ sung tri thức, tư tưởng mới; có những phát hiện khoa học mới đưa đến nhận thức, cách tiếp cận mới trong khoa học hoặc có tác động thay đổi quan trọng trong sản xuất và đời sống; + Được công bố, trích dẫn trên các tạp chí khoa học có uy tín trong nước hoặc quốc tế. - Công trình có tác dụng và ảnh hưởng lớn trong xã hội khi đáp ứng một trong các yêu cầu sau: + Đem lại hiệu quả kinh tế, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội hoặc làm thay đổi hợp lý cơ cấu ngành nghề; tiết kiệm chi phí sản xuất; nâng cao năng suất lao động; giảm thiểu tác động xấu đến môi trường; + Đóng góp quan trọng cho việc dự báo xu hướng tương lai, hoạch định và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; + Làm chuyển biến nhận thức của xã hội hoặc tác động quan trọng đến đời sống xã hội; nâng cao dân trí; thay đổi tích cực hành vi ứng xử của nhóm, tầng lớp trong xã hội; + Có tác dụng tốt trong giáo dục, được sử dụng cho công tác nghiên cứu và đào tạo đại học, sau đại học. Thẩm quyền tổ chức xét tặng giải thưởng về khoa học và công nghệ Theo Điều 6 Nghị định 18/2024/NĐ-CP Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì tổ chức việc xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ. Các bộ, ngành, địa phương quyết định việc tổ chức giải thưởng về khoa học và công nghệ trong phạm vi quản lý của bộ, ngành, địa phương và thực hiện việc xét tặng giải thưởng. Tổ chức, cá nhân được đặt giải thưởng về khoa học và công nghệ và thực hiện việc xét tặng giải thưởng. Trên đây là một số quy định mói về tiêu chuẩn xét tặng Giải thưởng Nhà nước đối với công trình nghiên cứu khoa học theo Nghị định 18/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 10/04/2024.
Viện Khoa học Lao động và Xã hội có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gì?
Để người dân hiểu rõ hơn về Viện Khoa học Lao động và Xã hội, một câu hỏi đặt ra là Viện Khoa học Lao động và Xã hội có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gì? Vì vậy, bài viết sau đây sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Viện Khoa học Lao động và Xã hội có chức năng gì? Căn cứ tại Điều 1 Quyết định 1870/QĐ-LĐTBXH năm 2018 có quy định về chức năng như sau: Viện Khoa học Lao động và Xã hội (sau đây viết tắt là Viện) là tổ chức khoa học và công nghệ công lập thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, có chức năng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu ứng dụng phục vụ quản lý nhà nước về các lĩnh vực: Lao động, tiền lương; việc làm; giáo dục nghề nghiệp; bảo hiểm xã hội; an toàn, vệ sinh lao động; người có công; bảo trợ xã hội; trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội (sau đây gọi chung là lĩnh vực lao động, người có công và xã hội); quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ. Viện Khoa học Lao động và Xã hội có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gì? (Hình từ Internet) Viện Khoa học Lao động và Xã hội có nhiệm vụ và quyền hạn gì? Căn cứ tại Điều 2 Quyết định 1870/QĐ-LĐTBXH năm 2018 có quy định về nhiệm vụ và quyền hạn như sau: - Xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học, công nghệ dài hạn và hàng năm về lĩnh vực lao động, người có công và xã hội, trình Bộ phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện. - Tổ chức nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực lao động, người có công và xã hội. - Thông tin, phân tích, dự báo trong lĩnh vực lao động, người có công và xã hội. - Điều tra, thống kê; tổ chức hội nghị, hội thảo phục vụ nghiên cứu khoa học. - Quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng và các hoạt động khoa học, công nghệ của Bộ; thường trực Hội đồng khoa học của Bộ. - Tham gia xây dựng chiến lược, đề án, quy hoạch, kế hoạch 5 năm, chương trình mục tiêu trong lĩnh vực lao động, người có công và xã hội; tham gia phản biện khoa học và nghiên cứu đánh giá dự án luật, chương trình, kế hoạch, dự án, chính sách, công trình nghiên cứu thuộc Bộ. - Tổ chức, liên kết đào tạo tiến sĩ các chuyên ngành thuộc lĩnh vực lao động, người có công và xã hội theo quy định của pháp luật. - Tham gia đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ngành lao động, thương binh và xã hội. - Hợp tác nghiên cứu khoa học với các tổ chức, cơ quan trong nước và nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực lao động và xã hội theo quy định của pháp luật và của Bộ. - Tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, nghiên cứu khoa học phù hợp với lĩnh vực chuyên môn, khả năng của đơn vị theo quy định của pháp luật. - Xây dựng phương án tự chủ theo quy định của pháp luật, phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị, trình Bộ phê duyệt để thực hiện. - Quản lý công chức, viên chức, người lao động, tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ; thực hiện chế độ báo cáo định kỳ hàng năm và đột xuất theo quy định; thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng giao. Viện Khoa học Lao động và Xã hội có cơ cấu tổ chức như thế nào? Căn cứ tại Điều 3 Quyết định 1870/QĐ-LĐTBXH năm 2018 có quy định về cơ cấu tổ chức như sau: - Viện Khoa học Lao động và Xã hội có Viện trưởng và không quá 03 Phó Viện trưởng. - Các đơn vị chức năng: + Văn phòng; + Phòng Kế hoạch - Đối ngoại; + Phòng Quản lý khoa học; + Phòng Nghiên cứu tiền lương và quan hệ lao động; + Phòng Nghiên cứu chính sách an sinh xã hội; + Trung tâm Nghiên cứu dân số, lao động, việc làm; + Trung tâm Nghiên cứu lao động nữ và giới; + Trung tâm Nghiên cứu môi trường và điều kiện lao động; + Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo chiến lược. Viện có Hội đồng khoa học để tư vấn cho Viện trưởng về công tác nghiên cứu khoa học.
Hướng dẫn thuê chuyên gia, lao động phục phụ công tác khoa học và công nghệ
Bộ trưởng Bộ KH&CN vừa ban hành Thông tư 02/2023/TT-BKHCN ngày 08/5/2023 hướng dẫn một số nội dung chuyên môn phục vụ công tác xây dựng dự toán thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng NSNN. Theo đó, Bộ KH&CN hướng dẫn việc thuê chuyên gia, lao động phục phụ công tác khoa học và công nghệ thực hiện như sau: (1) Thuê lao động phổ thông phục vụ triển khai nhiệm vụ Trong trường hợp cần thuê lao động phổ thông phục vụ triển khai nhiệm vụ, tổ chức chủ trì và chủ nhiệm nhiệm vụ căn cứ nội dung yêu cầu công việc cần thuê lao động, thuyết minh kết quả dự kiến của việc thuê lao động và lập dự toán chi tiết trong thuyết minh nhiệm vụ. Định mức thuê lao động phổ thông phục vụ triển khai nhiệm vụ thực hiện theo điểm b khoản 1 Điều 4 Thông tư 03/2023/TT-BTC. (2) Thuê chuyên gia trong nước, chuyên gia ngoài nước phối hợp nghiên cứu, thực hiện nhiệm vụ * Các trường hợp được thuê chuyên gia phối hợp nghiên cứu, thực hiện nhiệm vụ: - Khi nhiệm vụ có các nội dung nghiên cứu cần chuyên gia phối hợp giải quyết; - Việc thuê chuyên gia được quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành. Trong đó, một số trường hợp cụ thể được thuê chuyên gia như sau: + Quy định tại điểm d khoản 2 Phần II Quyết định 157/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030. + Quy định tại điểm a khoản 3 Phần II, điểm a khoản 4 Phần II Quyết định 118/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030. + Quy định tại điểm b khoản 2 Phần III Quyết định 130/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030. + Quy định tại điểm b khoản 3 Điều 8, điểm b khoản 5 Điều 13, điểm a khoản 1 Điều 14, khoản 3 Điều 27, điểm a khoản 3 Điều 29, điểm đ khoản 2 Điều 30 Nghị định 76/2018/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ 2017. * Trong trường hợp cần thuê chuyên gia theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 Thông tư 03/2023/TT-BTC, tổ chức chủ trì và chủ nhiệm nhiệm vụ căn cứ yêu cầu công việc cần thuê chuyên gia, thuyết minh rõ sự cần thiết và kết quả dự kiến của việc thuê chuyên gia. Đồng thời, lập dự toán chi tiết trong thuyết minh nhiệm vụ để hội đồng tuyển chọn, giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ xem xét, đánh giá, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ xem xét, quyết định. (3) Thuê chuyên gia, tổ chức tư vấn độc lập * Trong quá trình quản lý, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, cơ quan quản lý nhiệm vụ được thuê chuyên gia tư vấn độc lập để: - Xây dựng đề xuất đặt hàng nhiệm vụ. - Xác định nhiệm vụ đặt hàng. - Cho ý kiến trước khi quyết định lựa chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ. - Xem xét, đánh giá thực tế cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhân lực và năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân được kiến nghị chủ trì hoặc phối hợp thực hiện nhiệm vụ. - Kiểm tra, đánh giá tổ chức, cá nhân chủ trì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. - Tư vấn, đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ. - Xây dựng báo cáo đề xuất với cơ quan quản lý chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về các nội dung để tổ chức, triển khai có hiệu quả các mục tiêu của chương trình. * Trong quá trình tổ chức kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ, cơ quan quản lý nhiệm vụ được thuê tổ chức tư vấn độc lập quy định tại khoản 6 Điều 2 Thông tư 02/2023/TT-BKHCN. ’ * Định mức thuê chuyên gia, tổ chức tư vấn độc lập thực hiện theo quy định tại Thông tư 03/2023/TT-BTC và các quy định hiện hành. Xem thêm Thông tư 02/2023/TT-BKHCN có hiệu lực từ ngày 23/6/2023.
Xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật nhãn hiệu quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam
Ngày 16/12/2022, Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành Thông tư 17/2022/TT-BKHCN về định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam. Theo đó, định mức kinh tế - kỹ thuật nhãn hiệu quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam được quy định như sau: Phương pháp, cơ sở xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật Định mức kinh tế - kỹ thuật được xây dựng theo các phương pháp được quy định tại Điều 10 Thông tư 21/2019/TT-BKHCN bao gồm 02 phương pháp: * Phương pháp phân tích, thực nghiệm Phương pháp phân tích, thực nghiệm là phương pháp xây dựng định mức mà trong đó các tiêu hao về thời gian lao động, thời gian sử dụng máy móc, thiết bị và tiêu hao vật tư để thực hiện các nội dung công việc, phần tử công việc được xác định trên cơ sở chụp ảnh, bấm giờ và tiến hành trong điều kiện tổ chức, kỹ thuật hiện tại của đơn vị. Số liệu quan sát thực hiện trực tiếp tại nơi làm việc và các nhân tố ảnh hưởng tới các thành phần hao phí là sở cứ khoa học để phục vụ tính toán các trị số định mức. Căn cứ kỹ thuật của định mức được xác định dựa trên các tài liệu quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật, quy định của pháp luật về thời gian lao động, chế độ nghỉ ngơi, tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc thiết bị để xem xét và phân tích các nội dung công việc và trị số định mức cần xác định. Phương pháp này chỉ áp dụng đối với những nội dung công việc có chu kỳ thực hiện theo ngày và xuất hiện tại thời điểm tiến hành khảo sát. * Phương pháp thống kê tổng hợp Phương pháp thống kê tổng hợp là phương pháp xây dựng định mức trên cơ sở số liệu thống kê ở thời kỳ trước được tổng hợp và phân tích. Phương pháp này được sử dụng để tính toán xác định trị số mức đối với những nội dung công việc mà trình tự thực hiện và tiêu hao thời gian lao động không ổn định, chu kỳ thực hiện không phải là hàng ngày và không diễn ra tại thời điểm tiến hành khảo sát. Cơ sở xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật Định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam được xây dựng trên cơ sở Quy trình thực hiện dịch vụ xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Nội dung định mức Nội dung định mức kinh tế - kỹ thuật thực hiện theo quy định tại Điều 14 Thông tư 21/2019/TT-BKHCN, gồm các nội dung và mức hao phí để hoàn thành một khối lượng công việc nhất định đối với hoạt động xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam. Cụ thể: (1) Định mức lao động Là hao phí lao động cần thiết của các cấp bậc lao động bình quân thực tế tham gia vào hoạt động xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam. Mức hao phí trong định mức được tính bằng công, mỗi công tương ứng với 8 giờ làm việc, Định mức lao động bao gồm: - Định mức lao động trực tiếp. - Định mức lao động gián tiếp. Trong đó, định mức lao động gián tiếp (quản lý, phục vụ) bằng 10% định mức lao động trực tiếp. (2) Định mức máy móc, thiết bị Là hao phí máy móc, thiết bị được sử dụng trong hoạt động xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam. Mức hao phí trong định mức được tính bằng ca làm việc, mỗi ca tương ứng với 8 giờ làm việc. (3) Định mức vật tư Là hao phí các loại vật tư cần thiết sử dụng trực tiếp trong hoạt động xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam. Mức hao phí vật tư trong định mức được xác định bằng số lượng từng loại vật liệu cụ thể. Các hao phí khác (năng lượng, nhiên liệu, cơ sở hạ tầng và các chi phí trực tiếp khác) được tính và phân bổ cho hoạt động xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam khi lập đơn giá, dự toán kinh phí. Xem thêm Thông tư 17/2022/TT-BKHCN có hiệu lực ngày 01/02/2023.
Nhân lực trong kỷ nguyên số “không cần bằng cấp, làm được là được”
Không nặng bằng cấp, thước đo cho người lao động ở kỷ nguyên số là sự đánh giá của doanh nghiệp, các diễn giả tham thảo luận về vấn đề này đều chung nhận định như vậy. Những thách thức cơ bản của Việt Nam sẽ gia tăng trong kỷ nguyên số đối với vấn đề về nguồn nhân lực như thế nào? Để tìm kiếm nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số, các học giả, Giáo sư, Tiến sĩ đã có những ý kiến, suy nghĩ và những phương pháp đi khác nhau, cụ thể là: Theo ông Hoàng Nam Tiến, Chủ tịch Công ty FPT Sofware đề xuất một số phương pháp và hiện nay đang thực hiện: “Chúng tôi thử nghiệm học nhanh và ra đi làm. Cụ thể là, chúng tôi vẫn có đào tạo đại học nhưng đổi quy trình, làm sao các sinh viên học 2 năm là có thể ra đi làm. Chúng tôi khẳng định chương trình đào tạo hiện nay là sau 2 năm, các bạn sinh viên có thể đi làm được, tất nhiên sẽ kèm theo một loạt điều kiện khác. Sau khi đi làm, các em sẽ có cân nhắc giữa đi làm luôn và không tốt nghiệp đại học nữa, hoặc quay lại trường đại học để học thêm hai năm nữa để lấy bằng đại học. Ở đây quan điểm của các doanh nghiệp và tôi nghĩ kể cả các cơ quan nhà nước rất quan trọng là không cần bằng cấp. Bạn làm được việc là được, không cần bằng cấp. Nhưng điều này là rất khó vì nó trái với những gì chúng ta vẫn suy nghĩ, những truyền thống về học hành ở nước ta: đã học là phải có bằng cấp! Đề xuất thứ hai là của chúng tôi là đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp. Hiện nay xã hội thay đổi, nền kinh tế đòi hỏi những kỹ năng khác nhau. Có rất nhiều người học ngành điện, ngành cơ khí, học nghề chế tạo máy…, khi ra trường và đi làm một số năm, họ không được sử dụng một cách thích đáng. Chưa kể, thu nhập của họ cũng không được tốt, họ có nhu cầu để chuyển đổi ngành nghề. Chúng tôi đang đề nghị các trường đại học, đặc biệt là những trường đại học lớn như Đại học Bách khoa sẽ đưa ra chương trình đào tạo văn bằng 2 trong 12 đến 24 tháng và cung cấp những kỹ năng cập nhật nhất để học xong là số lao động này có thể tốt nghiệp là đi làm được. Đây là hai đề xuất hiện nay chúng tôi đang triển khai. Tôi tin rằng nếu thực hiện được thì chỉ trong vòng rất ngắn, khoảng 2 đến 4 năm tới, chúng ta sẽ có cả trăm ngàn người sẵn sàng cho những đòi hỏi của cuộc chuyển dịch mới này.” Theo quan điểm cá nhân mình thì việc áp dụng phương pháp này khá hay vì: Thứ nhất, mình có thể ra đi làm luôn sau 2 năm học trên trường, được đào tạo đủ để có thể đáp ứng công việc ban đầu tốt. Thứ hai, phương pháp này có thể rút ngắn được 1 khoảng thời gian dài (2 năm) để mình có thể đi làm và trải nghiệm luôn được công việc thực tế, học hỏi kinh nghiệm. Không có kinh nghiệm nào bằng việc tự thực hành, làm việc và va vấp với thực tế cuộc sống, công việc. Thứ ba, sau hai năm học bạn có quyền lựa chọn: một là ra đi làm có kinh nghiệm sau đó quay lại trường học tiếp 2 năm và lấy bằng hoặc làm việc luôn mà không cần bằng nữa. Quyền lựa chọn nằm trong tay của bạn. Tuy nhiên, phương pháp này lại đòi hỏi sinh viên sau 2 năm ra đi làm phải làm được việc và kèm theo một số điều kiện khác. Mình nghĩ điều kiện khác này ít nhất là các bạn có thể làm được công việc Doanh nghiệp đưa ra và phải nắm trong tay vốn kiến thức nhất định, ít ra cũng phải thuộc những sinh viên khá giỏi trong trường và có năng lực thật sự… thì mới đáp ứng được công việc. Vì thời gian hai năm để học tập cũng không phải ngắn cũng ko phải quá dài để có thể biết hết mọi kiến thức có thể làm được việc. Ngoài ra khi bạn đi làm sau hai năm học lúc này bạn muốn quay lại trường để học tiếp lấy tấm bằng đại học, tuy nhiên việc này sẽ làm gián đoạn công việc bạn đang làm và chắc chắn không công ty nào muốn một nhân viên của mình nghỉ hai năm để học xong sau đó quay lại làm cả. Lúc này bạn phải đối mặt với sự lựa chọn: ở lại làm việc, không có bằng cấp hoặc nghỉ việc, học nốt lấy bằng và xin việc lại. Và nếu có một nội dung giáo dục đảm bảo tính thực tiễn, tính hiện đại cộng với hệ thống đánh giá khách quan khoa học thì "bằng cấp" xác nhận khả năng "làm được việc" của mỗi cá nhân ở những lĩnh vực xác định. Cái "quan trọng" là "Hệ thống đánh giá và cấp bằng", bước này OK thì đương nhiên "Bằng cấp là quan trọng và giá trị" Đây là quan điểm của mình, còn các bạn nghĩ sao về phương pháp này ?, hãy cho mình biết quan điểm của các bạn nhé!
Đề xuất không truy cứu trách nhiệm khi nhà khoa học nghiên cứu thất bại
Có các công trình nghiên cứu khoa học thành công muộn, có công trình không thành công, nhưng bản chất của nghiên cứu là tìm cái mới và thử nghiệm, phải chấp nhận rủi ro trong khoa học. Chấp nhận rủi ro, khuyến khích các nhà khoa học theo đuổi đam mê Tại cuộc họp báo thường kỳ Quý I/2024 của Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức vào ngày 10/4 vừa qua. Ông Nguyễn Hoàng Giang - Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, hiện cơ chế chính sách còn một số điểm nghẽn, trong đó có việc chấp nhận độ trễ, rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Ông giải thích, rủi ro được hiểu là khi dùng ngân sách nhà nước nghiên cứu, quá trình thực hiện đúng quy định, tuân thủ các bước hội đồng nhưng không ra được kết quả. Theo đó, nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới. Việc nghiên cứu khoa học phải có thời gian và ngân sách, thậm chí có nhiều công trình nghiên cứu khoa học trên thế giới tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng nếu nghiên cứu thành công, nền khoa học công nghệ ở nước đó sẽ phát triển 1 bước nhảy vọt, kéo theo sự phát triển kinh tế - xã hội. Ông Giang chia sẻ: “chỉ có chấp nhận rủi ro mới khuyến khích được các nhà khoa học tham gia nghiên cứu. Đây là việc Bộ Khoa học và Công nghệ rất quan tâm và mong muốn sửa đổi Luật càng nhanh càng tốt”. Ông cho biết, năm 2024, Bộ tập trung sửa đổi toàn diện Luật và các văn bản liên quan với mục tiêu đưa khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo thành động lực mới trong tăng trưởng kinh tế. Ông Giang cho rằng, công trình nghiên cứu đến tiến độ theo quy định nhưng chưa đạt kết quả thì trước đây xem như vậy là thất bại, nhưng hiện nay việc đó đã được chấp nhận với cơ chế mới nếu được thực hiện. Một dự án nghiên cứu khoa học không mang đến kết quả như mong muốn không có nghĩa là dự án đó thất bại. Nghiên cứu hôm nay nhưng 10 năm sau mới có kết quả là bình thường. Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ - Nguyễn Hoàng Giang Sửa đổi các điều khoản trong Luật Bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng dẫn nhiều văn bản cho thấy sự chỉ đạo xuyên suốt của Bộ Chính trị, Chính phủ trong việc rà soát sửa đổi cơ chế chính sách để thể hiện đặc thù khoa học công nghệ, trong đó có việc chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Bà Diệp cho hay, đặc thù khoa học công nghệ là đi tìm cái mới, hoạt động sáng tạo nhưng quá trình nghiên cứu không đến được kết quả đặt ra. Đây là vấn đề khách quan và thực tế này trong hoạt động khoa học công nghệ quốc tế đã chấp nhận.Tại Luật Khoa học và Công nghệ (2013) đã có quy định liên quan chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, thể hiện tại Điều 23 về ưu đãi trong sử dụng nhân tài. Theo đó người bổ nhiệm chức danh nghiên cứu khoa học sẽ được miễn trách nhiệm dân sự trong trường hợp để xảy ra thiệt hại, hoặc gây rủi ro, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ với nguyên nhân khách quan dù thực hiện đầy đủ quy trình nghiên cứu. Bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ Luật Khoa học và Công nghệ đang sửa đổi sẽ theo hướng mở rộng hơn, đồng bộ với các hệ thống pháp luật có liên quan. Trong đó có nội dung “miễn trách nhiệm dân sự cho các nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu có gây thiệt hại, rủi ro cho nhà nước, hoặc đã thực hiện đầy đủ quy trình nhưng kết quả không đạt thì không phải bồi hoàn kinh phí sử dụng”, bà Diệp nói. Hiện tại việc sửa luật chưa đến khâu soạn thảo các nội dung cụ thể mà mới lập dự luật với các nhóm chính sách. Bộ KH-CN đề xuất 15 nhóm chính sách, hồ sơ được gửi xin ý kiến các bộ, ngành, UBND các tỉnh thành, doanh nghiệp, hiệp hội. (Nguồn tổng hợp)
Tiêu chuẩn xét tặng Giải thưởng Nhà nước đối với công trình nghiên cứu khoa học năm 2024?
Giải thưởng Nhà nước để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân trung thành với Tổ quốc, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là tác giả hoặc đồng tác giả của một hoặc nhiều công trình về khoa học và công nghệ đáp ứng tiêu chuẩn quy định của pháp luật. Công trình nghiên cứu khoa học là kết quả của hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Điều kiện xét tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ để xét tặng cho tác giả có công trình đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 7 và tiêu chuẩn quy định tại Điều 11, Điều 12 và Điều 13 của Nghị định 18/2024/NĐ-CP. Theo đó, Đối với tác giả trực tiếp sáng tạo, đóng góp vào giá trị khoa học và công nghệ của công trình; không vi phạm quy định tại Điều 8 Luật Khoa học và công nghệ và đáp ứng điều kiện sau đây - Đối với người Việt Nam: Chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; - Đối với người nước ngoài: Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, pháp luật và phong tục, tập quán tốt đẹp của Việt Nam. - Đối với công trình: + Hồ sơ hợp lệ, được công bố theo quy định (trừ các công trình có nội dung liên quan đến bí mật nhà nước), hoặc được ứng dụng tại Việt Nam; + Thời gian công trình được công bố hoặc ứng dụng trong thực tiễn ít nhất là 03 năm hoặc công trình được ứng dụng đổi mới sáng tạo có hiệu quả ít nhất 01 năm tính đến thời điểm nộp hồ sơ đề nghị xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ. Tiêu chuẩn xét tặng Giải thưởng Nhà nước đối với công trình nghiên cứu khoa học Theo Điều 11 Nghị định 18/2024/NĐ-CP công trình nghiên cứu khoa học được đề nghị tặng Giải thưởng Nhà nước phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau đây: -Công trình có giá trị cao về khoa học + Công trình nghiên cứu khoa học xuất sắc: Bổ sung tri thức, tư tưởng mới; có những phát hiện khoa học mới đưa đến nhận thức, cách tiếp cận mới trong khoa học hoặc có tác động thay đổi quan trọng trong sản xuất và đời sống; + Được công bố, trích dẫn trên các tạp chí khoa học có uy tín trong nước hoặc quốc tế. - Công trình có tác dụng và ảnh hưởng lớn trong xã hội khi đáp ứng một trong các yêu cầu sau: + Đem lại hiệu quả kinh tế, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội hoặc làm thay đổi hợp lý cơ cấu ngành nghề; tiết kiệm chi phí sản xuất; nâng cao năng suất lao động; giảm thiểu tác động xấu đến môi trường; + Đóng góp quan trọng cho việc dự báo xu hướng tương lai, hoạch định và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; + Làm chuyển biến nhận thức của xã hội hoặc tác động quan trọng đến đời sống xã hội; nâng cao dân trí; thay đổi tích cực hành vi ứng xử của nhóm, tầng lớp trong xã hội; + Có tác dụng tốt trong giáo dục, được sử dụng cho công tác nghiên cứu và đào tạo đại học, sau đại học. Thẩm quyền tổ chức xét tặng giải thưởng về khoa học và công nghệ Theo Điều 6 Nghị định 18/2024/NĐ-CP Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì tổ chức việc xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ. Các bộ, ngành, địa phương quyết định việc tổ chức giải thưởng về khoa học và công nghệ trong phạm vi quản lý của bộ, ngành, địa phương và thực hiện việc xét tặng giải thưởng. Tổ chức, cá nhân được đặt giải thưởng về khoa học và công nghệ và thực hiện việc xét tặng giải thưởng. Trên đây là một số quy định mói về tiêu chuẩn xét tặng Giải thưởng Nhà nước đối với công trình nghiên cứu khoa học theo Nghị định 18/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 10/04/2024.
Viện Khoa học Lao động và Xã hội có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gì?
Để người dân hiểu rõ hơn về Viện Khoa học Lao động và Xã hội, một câu hỏi đặt ra là Viện Khoa học Lao động và Xã hội có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gì? Vì vậy, bài viết sau đây sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Viện Khoa học Lao động và Xã hội có chức năng gì? Căn cứ tại Điều 1 Quyết định 1870/QĐ-LĐTBXH năm 2018 có quy định về chức năng như sau: Viện Khoa học Lao động và Xã hội (sau đây viết tắt là Viện) là tổ chức khoa học và công nghệ công lập thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, có chức năng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu ứng dụng phục vụ quản lý nhà nước về các lĩnh vực: Lao động, tiền lương; việc làm; giáo dục nghề nghiệp; bảo hiểm xã hội; an toàn, vệ sinh lao động; người có công; bảo trợ xã hội; trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội (sau đây gọi chung là lĩnh vực lao động, người có công và xã hội); quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ. Viện Khoa học Lao động và Xã hội có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gì? (Hình từ Internet) Viện Khoa học Lao động và Xã hội có nhiệm vụ và quyền hạn gì? Căn cứ tại Điều 2 Quyết định 1870/QĐ-LĐTBXH năm 2018 có quy định về nhiệm vụ và quyền hạn như sau: - Xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học, công nghệ dài hạn và hàng năm về lĩnh vực lao động, người có công và xã hội, trình Bộ phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện. - Tổ chức nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực lao động, người có công và xã hội. - Thông tin, phân tích, dự báo trong lĩnh vực lao động, người có công và xã hội. - Điều tra, thống kê; tổ chức hội nghị, hội thảo phục vụ nghiên cứu khoa học. - Quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng và các hoạt động khoa học, công nghệ của Bộ; thường trực Hội đồng khoa học của Bộ. - Tham gia xây dựng chiến lược, đề án, quy hoạch, kế hoạch 5 năm, chương trình mục tiêu trong lĩnh vực lao động, người có công và xã hội; tham gia phản biện khoa học và nghiên cứu đánh giá dự án luật, chương trình, kế hoạch, dự án, chính sách, công trình nghiên cứu thuộc Bộ. - Tổ chức, liên kết đào tạo tiến sĩ các chuyên ngành thuộc lĩnh vực lao động, người có công và xã hội theo quy định của pháp luật. - Tham gia đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ngành lao động, thương binh và xã hội. - Hợp tác nghiên cứu khoa học với các tổ chức, cơ quan trong nước và nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực lao động và xã hội theo quy định của pháp luật và của Bộ. - Tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, nghiên cứu khoa học phù hợp với lĩnh vực chuyên môn, khả năng của đơn vị theo quy định của pháp luật. - Xây dựng phương án tự chủ theo quy định của pháp luật, phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị, trình Bộ phê duyệt để thực hiện. - Quản lý công chức, viên chức, người lao động, tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ; thực hiện chế độ báo cáo định kỳ hàng năm và đột xuất theo quy định; thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng giao. Viện Khoa học Lao động và Xã hội có cơ cấu tổ chức như thế nào? Căn cứ tại Điều 3 Quyết định 1870/QĐ-LĐTBXH năm 2018 có quy định về cơ cấu tổ chức như sau: - Viện Khoa học Lao động và Xã hội có Viện trưởng và không quá 03 Phó Viện trưởng. - Các đơn vị chức năng: + Văn phòng; + Phòng Kế hoạch - Đối ngoại; + Phòng Quản lý khoa học; + Phòng Nghiên cứu tiền lương và quan hệ lao động; + Phòng Nghiên cứu chính sách an sinh xã hội; + Trung tâm Nghiên cứu dân số, lao động, việc làm; + Trung tâm Nghiên cứu lao động nữ và giới; + Trung tâm Nghiên cứu môi trường và điều kiện lao động; + Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo chiến lược. Viện có Hội đồng khoa học để tư vấn cho Viện trưởng về công tác nghiên cứu khoa học.
Hướng dẫn thuê chuyên gia, lao động phục phụ công tác khoa học và công nghệ
Bộ trưởng Bộ KH&CN vừa ban hành Thông tư 02/2023/TT-BKHCN ngày 08/5/2023 hướng dẫn một số nội dung chuyên môn phục vụ công tác xây dựng dự toán thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng NSNN. Theo đó, Bộ KH&CN hướng dẫn việc thuê chuyên gia, lao động phục phụ công tác khoa học và công nghệ thực hiện như sau: (1) Thuê lao động phổ thông phục vụ triển khai nhiệm vụ Trong trường hợp cần thuê lao động phổ thông phục vụ triển khai nhiệm vụ, tổ chức chủ trì và chủ nhiệm nhiệm vụ căn cứ nội dung yêu cầu công việc cần thuê lao động, thuyết minh kết quả dự kiến của việc thuê lao động và lập dự toán chi tiết trong thuyết minh nhiệm vụ. Định mức thuê lao động phổ thông phục vụ triển khai nhiệm vụ thực hiện theo điểm b khoản 1 Điều 4 Thông tư 03/2023/TT-BTC. (2) Thuê chuyên gia trong nước, chuyên gia ngoài nước phối hợp nghiên cứu, thực hiện nhiệm vụ * Các trường hợp được thuê chuyên gia phối hợp nghiên cứu, thực hiện nhiệm vụ: - Khi nhiệm vụ có các nội dung nghiên cứu cần chuyên gia phối hợp giải quyết; - Việc thuê chuyên gia được quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành. Trong đó, một số trường hợp cụ thể được thuê chuyên gia như sau: + Quy định tại điểm d khoản 2 Phần II Quyết định 157/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030. + Quy định tại điểm a khoản 3 Phần II, điểm a khoản 4 Phần II Quyết định 118/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030. + Quy định tại điểm b khoản 2 Phần III Quyết định 130/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030. + Quy định tại điểm b khoản 3 Điều 8, điểm b khoản 5 Điều 13, điểm a khoản 1 Điều 14, khoản 3 Điều 27, điểm a khoản 3 Điều 29, điểm đ khoản 2 Điều 30 Nghị định 76/2018/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ 2017. * Trong trường hợp cần thuê chuyên gia theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 Thông tư 03/2023/TT-BTC, tổ chức chủ trì và chủ nhiệm nhiệm vụ căn cứ yêu cầu công việc cần thuê chuyên gia, thuyết minh rõ sự cần thiết và kết quả dự kiến của việc thuê chuyên gia. Đồng thời, lập dự toán chi tiết trong thuyết minh nhiệm vụ để hội đồng tuyển chọn, giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ xem xét, đánh giá, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ xem xét, quyết định. (3) Thuê chuyên gia, tổ chức tư vấn độc lập * Trong quá trình quản lý, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, cơ quan quản lý nhiệm vụ được thuê chuyên gia tư vấn độc lập để: - Xây dựng đề xuất đặt hàng nhiệm vụ. - Xác định nhiệm vụ đặt hàng. - Cho ý kiến trước khi quyết định lựa chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ. - Xem xét, đánh giá thực tế cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhân lực và năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân được kiến nghị chủ trì hoặc phối hợp thực hiện nhiệm vụ. - Kiểm tra, đánh giá tổ chức, cá nhân chủ trì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. - Tư vấn, đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ. - Xây dựng báo cáo đề xuất với cơ quan quản lý chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về các nội dung để tổ chức, triển khai có hiệu quả các mục tiêu của chương trình. * Trong quá trình tổ chức kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ, cơ quan quản lý nhiệm vụ được thuê tổ chức tư vấn độc lập quy định tại khoản 6 Điều 2 Thông tư 02/2023/TT-BKHCN. ’ * Định mức thuê chuyên gia, tổ chức tư vấn độc lập thực hiện theo quy định tại Thông tư 03/2023/TT-BTC và các quy định hiện hành. Xem thêm Thông tư 02/2023/TT-BKHCN có hiệu lực từ ngày 23/6/2023.
Xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật nhãn hiệu quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam
Ngày 16/12/2022, Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành Thông tư 17/2022/TT-BKHCN về định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam. Theo đó, định mức kinh tế - kỹ thuật nhãn hiệu quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam được quy định như sau: Phương pháp, cơ sở xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật Định mức kinh tế - kỹ thuật được xây dựng theo các phương pháp được quy định tại Điều 10 Thông tư 21/2019/TT-BKHCN bao gồm 02 phương pháp: * Phương pháp phân tích, thực nghiệm Phương pháp phân tích, thực nghiệm là phương pháp xây dựng định mức mà trong đó các tiêu hao về thời gian lao động, thời gian sử dụng máy móc, thiết bị và tiêu hao vật tư để thực hiện các nội dung công việc, phần tử công việc được xác định trên cơ sở chụp ảnh, bấm giờ và tiến hành trong điều kiện tổ chức, kỹ thuật hiện tại của đơn vị. Số liệu quan sát thực hiện trực tiếp tại nơi làm việc và các nhân tố ảnh hưởng tới các thành phần hao phí là sở cứ khoa học để phục vụ tính toán các trị số định mức. Căn cứ kỹ thuật của định mức được xác định dựa trên các tài liệu quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật, quy định của pháp luật về thời gian lao động, chế độ nghỉ ngơi, tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc thiết bị để xem xét và phân tích các nội dung công việc và trị số định mức cần xác định. Phương pháp này chỉ áp dụng đối với những nội dung công việc có chu kỳ thực hiện theo ngày và xuất hiện tại thời điểm tiến hành khảo sát. * Phương pháp thống kê tổng hợp Phương pháp thống kê tổng hợp là phương pháp xây dựng định mức trên cơ sở số liệu thống kê ở thời kỳ trước được tổng hợp và phân tích. Phương pháp này được sử dụng để tính toán xác định trị số mức đối với những nội dung công việc mà trình tự thực hiện và tiêu hao thời gian lao động không ổn định, chu kỳ thực hiện không phải là hàng ngày và không diễn ra tại thời điểm tiến hành khảo sát. Cơ sở xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật Định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam được xây dựng trên cơ sở Quy trình thực hiện dịch vụ xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Nội dung định mức Nội dung định mức kinh tế - kỹ thuật thực hiện theo quy định tại Điều 14 Thông tư 21/2019/TT-BKHCN, gồm các nội dung và mức hao phí để hoàn thành một khối lượng công việc nhất định đối với hoạt động xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam. Cụ thể: (1) Định mức lao động Là hao phí lao động cần thiết của các cấp bậc lao động bình quân thực tế tham gia vào hoạt động xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam. Mức hao phí trong định mức được tính bằng công, mỗi công tương ứng với 8 giờ làm việc, Định mức lao động bao gồm: - Định mức lao động trực tiếp. - Định mức lao động gián tiếp. Trong đó, định mức lao động gián tiếp (quản lý, phục vụ) bằng 10% định mức lao động trực tiếp. (2) Định mức máy móc, thiết bị Là hao phí máy móc, thiết bị được sử dụng trong hoạt động xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam. Mức hao phí trong định mức được tính bằng ca làm việc, mỗi ca tương ứng với 8 giờ làm việc. (3) Định mức vật tư Là hao phí các loại vật tư cần thiết sử dụng trực tiếp trong hoạt động xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam. Mức hao phí vật tư trong định mức được xác định bằng số lượng từng loại vật liệu cụ thể. Các hao phí khác (năng lượng, nhiên liệu, cơ sở hạ tầng và các chi phí trực tiếp khác) được tính và phân bổ cho hoạt động xử lý yêu cầu xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam khi lập đơn giá, dự toán kinh phí. Xem thêm Thông tư 17/2022/TT-BKHCN có hiệu lực ngày 01/02/2023.
Nhân lực trong kỷ nguyên số “không cần bằng cấp, làm được là được”
Không nặng bằng cấp, thước đo cho người lao động ở kỷ nguyên số là sự đánh giá của doanh nghiệp, các diễn giả tham thảo luận về vấn đề này đều chung nhận định như vậy. Những thách thức cơ bản của Việt Nam sẽ gia tăng trong kỷ nguyên số đối với vấn đề về nguồn nhân lực như thế nào? Để tìm kiếm nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số, các học giả, Giáo sư, Tiến sĩ đã có những ý kiến, suy nghĩ và những phương pháp đi khác nhau, cụ thể là: Theo ông Hoàng Nam Tiến, Chủ tịch Công ty FPT Sofware đề xuất một số phương pháp và hiện nay đang thực hiện: “Chúng tôi thử nghiệm học nhanh và ra đi làm. Cụ thể là, chúng tôi vẫn có đào tạo đại học nhưng đổi quy trình, làm sao các sinh viên học 2 năm là có thể ra đi làm. Chúng tôi khẳng định chương trình đào tạo hiện nay là sau 2 năm, các bạn sinh viên có thể đi làm được, tất nhiên sẽ kèm theo một loạt điều kiện khác. Sau khi đi làm, các em sẽ có cân nhắc giữa đi làm luôn và không tốt nghiệp đại học nữa, hoặc quay lại trường đại học để học thêm hai năm nữa để lấy bằng đại học. Ở đây quan điểm của các doanh nghiệp và tôi nghĩ kể cả các cơ quan nhà nước rất quan trọng là không cần bằng cấp. Bạn làm được việc là được, không cần bằng cấp. Nhưng điều này là rất khó vì nó trái với những gì chúng ta vẫn suy nghĩ, những truyền thống về học hành ở nước ta: đã học là phải có bằng cấp! Đề xuất thứ hai là của chúng tôi là đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp. Hiện nay xã hội thay đổi, nền kinh tế đòi hỏi những kỹ năng khác nhau. Có rất nhiều người học ngành điện, ngành cơ khí, học nghề chế tạo máy…, khi ra trường và đi làm một số năm, họ không được sử dụng một cách thích đáng. Chưa kể, thu nhập của họ cũng không được tốt, họ có nhu cầu để chuyển đổi ngành nghề. Chúng tôi đang đề nghị các trường đại học, đặc biệt là những trường đại học lớn như Đại học Bách khoa sẽ đưa ra chương trình đào tạo văn bằng 2 trong 12 đến 24 tháng và cung cấp những kỹ năng cập nhật nhất để học xong là số lao động này có thể tốt nghiệp là đi làm được. Đây là hai đề xuất hiện nay chúng tôi đang triển khai. Tôi tin rằng nếu thực hiện được thì chỉ trong vòng rất ngắn, khoảng 2 đến 4 năm tới, chúng ta sẽ có cả trăm ngàn người sẵn sàng cho những đòi hỏi của cuộc chuyển dịch mới này.” Theo quan điểm cá nhân mình thì việc áp dụng phương pháp này khá hay vì: Thứ nhất, mình có thể ra đi làm luôn sau 2 năm học trên trường, được đào tạo đủ để có thể đáp ứng công việc ban đầu tốt. Thứ hai, phương pháp này có thể rút ngắn được 1 khoảng thời gian dài (2 năm) để mình có thể đi làm và trải nghiệm luôn được công việc thực tế, học hỏi kinh nghiệm. Không có kinh nghiệm nào bằng việc tự thực hành, làm việc và va vấp với thực tế cuộc sống, công việc. Thứ ba, sau hai năm học bạn có quyền lựa chọn: một là ra đi làm có kinh nghiệm sau đó quay lại trường học tiếp 2 năm và lấy bằng hoặc làm việc luôn mà không cần bằng nữa. Quyền lựa chọn nằm trong tay của bạn. Tuy nhiên, phương pháp này lại đòi hỏi sinh viên sau 2 năm ra đi làm phải làm được việc và kèm theo một số điều kiện khác. Mình nghĩ điều kiện khác này ít nhất là các bạn có thể làm được công việc Doanh nghiệp đưa ra và phải nắm trong tay vốn kiến thức nhất định, ít ra cũng phải thuộc những sinh viên khá giỏi trong trường và có năng lực thật sự… thì mới đáp ứng được công việc. Vì thời gian hai năm để học tập cũng không phải ngắn cũng ko phải quá dài để có thể biết hết mọi kiến thức có thể làm được việc. Ngoài ra khi bạn đi làm sau hai năm học lúc này bạn muốn quay lại trường để học tiếp lấy tấm bằng đại học, tuy nhiên việc này sẽ làm gián đoạn công việc bạn đang làm và chắc chắn không công ty nào muốn một nhân viên của mình nghỉ hai năm để học xong sau đó quay lại làm cả. Lúc này bạn phải đối mặt với sự lựa chọn: ở lại làm việc, không có bằng cấp hoặc nghỉ việc, học nốt lấy bằng và xin việc lại. Và nếu có một nội dung giáo dục đảm bảo tính thực tiễn, tính hiện đại cộng với hệ thống đánh giá khách quan khoa học thì "bằng cấp" xác nhận khả năng "làm được việc" của mỗi cá nhân ở những lĩnh vực xác định. Cái "quan trọng" là "Hệ thống đánh giá và cấp bằng", bước này OK thì đương nhiên "Bằng cấp là quan trọng và giá trị" Đây là quan điểm của mình, còn các bạn nghĩ sao về phương pháp này ?, hãy cho mình biết quan điểm của các bạn nhé!