HĐTP TANDTC hướng dẫn chi tiết các trường hợp vợ/chồng được đơn phương ly hôn
Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2024. Trong đó có hướng dẫn chi tiết các trường hợp vợ/chồng được đơn phương ly hôn. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf Ai được quyền yêu cầu đơn phương ly hôn? Theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì các đối tượng sau đây có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn: - Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. - Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. - Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Như vậy, pháp luật hiện nay quy định chung các đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn thuận tình và đơn phương ly hôn. Theo đó, nếu thuộc trường hợp được đơn phương ly hôn thì các đối tượng trên sẽ có quyền yêu cầu đơn phương ly hôn. Khi nào vợ/chồng được đơn phương ly hôn Ly hôn theo yêu cầu của một bên được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: - Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. -Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. - Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia. Như vậy, nếu thuộc một trong những trường hợp trên thì vợ/chồng được quyền đơn phương ly hôn. Tuy nhiên, trường hợp bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được trước đây chưa có quy định cụ thể là như thế nào. Ngày 24/4/2024 Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (HĐTP TANDTC) đã thông qua Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, có hiệu lực từ ngày 1/7/2024. Tại đây, HĐTP TANDTC đã có hướng dẫn chi tiết trường hợp trên. Hướng dẫn chi tiết các trường hợp vợ/chồng được đơn phương ly hôn Theo Điều 4 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn về ly hôn theo yêu cầu của một bên quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: - "Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình" là vợ, chồng có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Cụ thể khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 quy định những hành vi sau đây là hành vi bạo lực gia đình: + Hành hạ, ngược đãi, đánh đập, đe dọa hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng; + Lăng mạ, chì chiết hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; + Cưỡng ép chứng kiến bạo lực đối với người, con vật nhằm gây áp lực thường xuyên về tâm lý; + Bỏ mặc, không quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc thành viên gia đình là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; không giáo dục thành viên gia đình là trẻ em; + Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới, giới tính, năng lực của thành viên gia đình; + Ngăn cản thành viên gia đình gặp gỡ người thân, có quan hệ xã hội hợp pháp, lành mạnh hoặc hành vi khác nhằm cô lập, gây áp lực thường xuyên về tâm lý; + Giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; + Tiết lộ hoặc phát tán thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm; + Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn của vợ hoặc chồng; + Cưỡng ép trình diễn hành vi khiêu dâm; cưỡng ép nghe âm thanh, xem hình ảnh, đọc nội dung khiêu dâm, kích thích bạo lực; +Cưỡng ép tảo hôn, kết hôn, ly hôn hoặc cản trở kết hôn, ly hôn hợp pháp; + Cưỡng ép mang thai, phá thai, lựa chọn giới tính thai nhi; + Chiếm đoạt, hủy hoại tài sản chung của gia đình hoặc tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình; + Cưỡng ép thành viên gia đình học tập, lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát tài sản, thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng lệ thuộc về mặt vật chất, tinh thần hoặc các mặt khác; + Cô lập, giam cầm thành viên gia đình; + Cưỡng ép thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp trái pháp luật. - “Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” là vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người kia. Ví dụ: Vợ, chồng phá tán tài sản gia đình. - “Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” là thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Không có tình nghĩa vợ chồng, ví dụ: vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vợ, chồng sống ly thân, bỏ mặc vợ hoặc chồng; + Vợ, chồng có quan hệ ngoại tình; + Vợ, chồng xúc phạm nhau, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh thần hoặc gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của nhau; + Không bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Theo đó, HĐTP TANDTC đã có hướng dẫn chi tiết về các trường hợp vợ/chồng được quyền đơn phương ly hôn. Người đọc có thể tham khảo để áp dụng vào trường hợp của mình. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf
Trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC
Vừa qua ngày 16/5/2024 Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP. Trong đó, có hướng dẫn về các trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf Vợ/chồng chết thì di sản được phân chia thế nào? Theo Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết: - Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản. - Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. - Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự. - Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác. Đồng thời, các trường hợp hạn chế phân chia di sản được quy định tại Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: - Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia. - Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm. Như vậy, việc phân chia di sản của vợ/chồng khi mất hiện nay sẽ được thực hiện theo quy định trên. Đồng thời, tại Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (HĐTP TANDTC) có hướng dẫn cụ thể về trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng. Trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC Theo Điều 5 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn về hạn chế phân chia di sản của vợ, chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 như sau: Việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình theo quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 và Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 là trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất... Ví dụ 1: Trước khi kết hôn, anh A mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 35 m. Sau đó anh A kết hôn với chị B và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh được một người con thì anh A chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu cầu chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào khác và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không thể chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là ngôi nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con. Ví dụ 2: Anh C và chị D kết hôn với nhau và mua được ngôi nhà có diện tích 35 mẻ. Sau khi sinh được một người con thì anh C chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia di sản do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này. Chị D và con không có chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng không có khả năng. Trong trường hợp này, việc chia di sản thừa kế phần nhà của anh C trong ngôi nhà có diện tích 35 m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị D và con. Như vậy, theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC, trường hợp vợ/chồng chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì người còn lại và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất… thì người còn lại có quyền yêu cầu xác định di sản nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf
TANDTC lấy ý kiến Dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn giải quyết tranh chấp về đặt cọc
Tòa án nhân dân tối cao đang Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/22/du-thao-giai-quyet-tranh-chap.pdf Dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc (Lần 2.1). https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/22/to-trinh-giai-quyet-tranh-chap-dat-coc.pdf Tờ trình Dự thảo Nghị quyết. (1) Hiệu lực của đặt cọc Theo Dự thảo Nghị quyết (Lần 2.1), thỏa thuận về đặt cọc là giao dịch dân sự quy định tại Điều 116 Bộ Luật Dân sự 2015 và có hiệu lực khi nó đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 117 Bộ Luật Dân sự 2015. Đồng thời, việc đặt cọc sẽ có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận đặt cọc nắm giữ tài sản đặt cọc. Ví dụ: Các bên ký HĐ viết tay chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mà trong đó ghi nhận bên nhận chuyển nhượng giao cho bên chuyển nhượng một khoản tiền để đảm bảo giao kết và thực hiện việc chuyển nhượng. Ngay sau khi ký hợp đồng, bên nhận chuyển nhượng giao khoán tiền cho bên chuyển nhượng. Tại đây, tính từ thời điểm bên chuyển nhượng nhận tiền thì HĐ đặt cọc sẽ có hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Tại đây, Dự thảo Nghị quyết (Lần 2.1) cũng nêu rõ trường hợp đặt cọc chỉ để đảm đảm cho việc giao kết hoặc thực hiện HĐ hoặc vừa để bảo đảm cho việc giao kết vừa để bảo đảm cho việc thực hiện thì khi HĐ không giao kết, thực hiện được hoặc vô hiệu thì không đương nhiên làm cho thỏa thuận đặt cọc bị vô hiệu. (2) Mức phạt cọc Theo Điều 6 Dự thảo Nghị quyết (Lần 2.1), phạt cọc là thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của luật, theo đó nếu bên nhận đặt cọc từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng thì ngoài việc phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc còn phải trả cho bên đặt cọc một khoản tiền. Trường hợp giữa các bên không có thỏa thuận về phạt cọc thì trường hợp bên nhận đặt cọc từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng thì nếu bên đặt cọc yêu cầu, bên nhận đặt cọc vẫn phải trả cho bên đặt cọc một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc. Tại đây, Dự thảo Nghị quyết (Lần 2.1) đề xuất 02 phương án như sau: Phương án 01: Bên đặt cọc và bên nhận đặt cọc có thể thỏa thuận mức tiền phạt cọc khác với mức “một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc” được quy định tại Khoản 2 Điều 328 Bộ Luật Dân sự 2015. Phương án 02: Bên đặt cọc và bên nhận đặt cọc có thể thỏa thuận mức tiền phạt cọc khác nêu trên nhưng không được vượt quá năm lần mức tiền đặt cọc. Trường hợp bên đặt cọc và bên nhận đặt cọc thỏa thuận về mức phạt cọc vượt quá 05 lần giá trị tài sản đặt cọc thì khi giải quyết tranh chấp, Tòa án chỉ chấp nhận phạt cọc bằng 05 lần mức tiền đặt cọc. (3) Trường hợp có tranh chấp về phạt cọc mà các bên không có thỏa thuận về việc xử lý Theo Dự thảo Nghị quyết, trường hợp các bên không có thỏa thuận khác về việc xử lý đặt cọc mà xảy ra tranh chấp thì sẽ thực hiện như sau: - Trường hợp đặt cọc để đảm bảo giao kết/thực hiện HĐ: Tại đây, bên nào có lỗi làm cho hợp đồng không được giao kết hoặc không được thực hiện hoặc bị vô hiệu thì phải chịu phạt cọc theo quy định tại Khoản 2 Điều 328 Bộ Luật Dân sự 2015. - Trường hợp đặt cọc để đảm bảo giao kết mà trong quá trình thực hiện mới có vi phạm làm cho HĐ không được thực hiện hoặc mới phát hiện HĐ bị vô hiệu thì không phạt cọc. Việc giải quyêt tranh châp về vi phạm HĐ hoặc xử lý HĐ vô hiệu sẽ được thực hiện theo thủ tục chung. - Trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc luật có quy định điều kiện nếu đặt cọc bị vô hiệu là HĐ cũng bị vô hiệu, thì HĐ đương nhiên bị vô hiệu khi đặt cọc đó bị vô hiệu. Việc xử lý đặt cọc bị vô hiệu và HĐ bị vô hiệu được thực hiện theo quy định tại Điều 131 Bộ Luật Dân sự 2015. Tại đây, Dự thảo Nghị quyết (Lần 2.1) cũng đưa ra ví dụ cho trường hợp này như sau: Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng mua bán nhà. Khi giao kết hai bên thỏa thuận B (bên mua) phải giao cho A (bên bán) một chiếc xe ô tô thể thao đế đặt cọc bảo đảm cho việc giao kết và thực hiện HĐ mua bán nhà ở với điều kiện khi HĐ mua bán nhà ở được giao kết và thực hiện thì giá trị chiếc xe ô tô thể thao đó phải được trừ vào tiền mua bán nhà và nếu A không nhận được chiếc xe ô tô đó do việc đặt cọc bị vô hiệu thì HĐ cũng bị vô hiệu. Khi bắt đầu thực hiện HĐ thì phát hiện chiếc xe ô tô đó là của ông C (bố B) và ông C không đồng ý cho B lấy chiếc xe ô tô đó trừ vào tiền mua nhà. Có nghĩa là việc đặt cọc bị vô hiệu và do đó trong trường hợp này HĐ mua bán nhà cũng bị vô hiệu theo. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/22/to-trinh-giai-quyet-tranh-chap-dat-coc.pdf Tờ trình Dự thảo Nghị quyết. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/22/du-thao-giai-quyet-tranh-chap.pdf Dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc (Lần 2.1).
Quyết định 39/QĐ-CA: Thêm 07 án lệ được Tòa án nhân dân tối cao công bố
Ngày 24/02/2023 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định 39/QĐ-CA năm 2023 về việc công bố thêm 07 án lệ. Theo đó, 04 án lệ được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua và được áp dụng kể từ ngày 27/03/2023 bao gồm: (1) Án lệ số 57/2023/AL về hành vi gian dối nhằm tiếp cận tài sản trong tội “Cướp giật tài sản” - Nguồn án lệ: Bản án hình sự phúc thẩm số 590/2020/HS-PT ngày 18/12/2020 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Cướp giật tài sản ” đối với bị cáo Nguyễn Thành Quốc B. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 4 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Bị cáo dùng thủ đoạn gian dối để người quản lý tài sản chuyển giao tài sản cho bị cáo, sau đó lợi dụng sơ hở để nhanh chóng tẩu thoát. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cướp giật tài sản”. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). (2) Án lệ số 58/2023/AL về tình tiết định khung hình phạt tại điểm c khoản 3 Điều 244 Bộ luật Hình sự 2015 - Nguồn án lệ: Bản án hình sự sơ thẩm số 179/2018/HSST ngày 14/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh về vụ án “P7 phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ” đối với bị cáo Hoàng Đình Q. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 13, 16 và 18 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Bị cáo có hành vi vận chuyển 05 cá thể hổ và 01 bộ phận không thể tách rời sự sống của cá thể hổ thứ 06. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 244 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: + Điều 244 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); + Điều 4 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 234 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự 2015. (3) Án lệ số 59/2023/AL về lỗi cố ý gián tiếp trong vụ án “Giết người” - Nguồn án lệ: Bản án phúc thẩm số 50/2020/HS-PT ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái về vụ án “Giết người” đối với các bị cáo Triệu Văn M, Đặng Văn T. - Vi trí nội dung án lệ: Đoạn 3, 4 và 5 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Bị cáo dùng hung khí nguy hiểm tấn công bị hại. BỊ hại điều khiển xe mô tô bỏ chạy, bị cáo tiếp tục truy đuổi làm bị hại lo sợ phải tăng tốc bỏ chạy. Khi bị hại bị tai nạn thì bị cáo mới dừng việc truy đuổi. Bị hại tử vong trên đường đi cấp cứu. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” với lỗi cố ý gián tiếp. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). (4) Án lệ số 60/2023/AL về thời hạn trả thưởng xổ số kiến thiết - Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 239/2022/DS-GDT ngày 05/9/2022 của Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp trả thưởng tiền xổ số kiến thiết” giữa nguyên đơn là ông Thái Hữu T với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xổ số kiến thiết A. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 2, 3, 4, 6 và 7 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Thể lệ tham gia dự thưởng của công ty xổ số kiến thiết xác định thời hạn trả thưởng đối với vé số trúng thưởng được tính theo ngày. - Giải pháp pháp lỷ: Trường hợp này, Tòa án phải xác định ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 147 Bộ luật Dân sự 2015; ngày cuối cùng của thời hạn trả thưởng được xác định theo quy định tại Điều 148 Bộ luật Dân sự 2015. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: + Khoản 2 Điều 147, khoản 1, 5 và 6 Điều 148 Bộ luật Dân sự 2015. + Khoản 1 Điều 30 Thông tư 75/2013/TT-BTC ngày 4/6/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết về hoạt động kinh doanh xổ số. (5) Án lệ 61/2023/AL về chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi chưa thành niên - Nguồn án lệ: Quyết định sơ thẩm số 87/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai về việc “Yêu cầu chẩm việc nuôi con nuôi ”, người yêu cầu là ông Trần Công T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Thanh H và chị Trần Thị Thảo TI. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 7, 8 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Cha đẻ, mẹ đẻ và cha nuôi, mẹ nuôi thống nhất giao lại con nuôi chưa thành niên cho cha đẻ, mẹ đẻ tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; con nuôi có nguyện vọng được về sống với cha đẻ, mẹ đẻ và cha nuôi, mẹ nuôi có yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải chấp nhận yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: + Các điều 25, 26 và 27 Luật Nuôi con nuôi 2010; + Điều 78 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. (6) Án lệ số 62/2023/AL về thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên trong vụ án tranh chấp về xác định cha cho con - Nguồn án lệ: Bản án phúc thẩm số 07/2018/HN-PT ngày 22/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về vụ án hôn nhân và gia đình “Xác định cha cho con, cấp dưỡng nuôi con ” giữa nguyên đơn là chị Lê Thị D với bị đơn là anh Trịnh Vinh C. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 4 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Sau khi người con được sinh ra, người mẹ khởi kiện yêu cầu xác định bị đơn là cha đẻ của người con và yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên. Tòa án xác định bị đơn là cha đẻ của người con và có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải xác định thời gian cấp dưỡng cho con chưa thành niên được tính kể từ khi người con được sinh ra. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Khoản 24 Điều 3, Điều 107, Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. (7) Án lệ số 63/2023/AL về xem xét quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện - Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 04/2018/HC-GĐT ngày 23/10/2018 của Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng về vụ án hành chính “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm trật tự đô thị và yêu cầu đòi bồi thường do hành vi cưỡng chế gây ra ” giữa người khởi kiện là ông Lê Hữu T, bà Lê Thị Ngọc L với người bị kiện là Chủ tịch UBND phường A. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 15 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Người khởi kiện khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính nhưng chỉ có hành vi hành chính còn thời hiệu khởi kiện. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Toà án phải giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với hành vi hành chính và có quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 6, Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015. Xem thêm Quyết định 39/QĐ-CA có hiệu lực ngày 24/02/2023.
Nâng ngạch TAND: Trường hợp 2 người cùng điểm sẽ do Chánh án TANDTC quyết định
Ngày 20/02/2023 Tòa án nhân dân tối cao ban hành Kế hoạch 103/TANDTC-TCCB tổ chức thi nâng ngạch cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính năm 2023. Theo đó, nhằm xác định người trúng tuyển nâng ngạch thì đối với trường hợp 2 người thi trở lên có cùng tổng điểm sẽ do Chánh án TANDTC quyết định. (1) Xác định người trúng tuyển và thông báo kết quả * Việc xác định người trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch công chức phải có đủ các điều kiện sau: - Có số câu trả lời đúng từ 50% số câu hỏi trở lên cho từng môn thi, trừ trường hợp miễn thi. - Có kết quả điểm bài thi môn chuyên môn nghiệp vụ đạt từ 50 điểm trở lên và lấy theo thứ tự điểm từ cao xuống thấp trong phạm vi chỉ tiêu nâng ngạch được giao. - Trường hợp có từ 02 người trở lên có tổng kết quả điểm bài thi môn chuyên môn nghiệp vụ bằng nhau ở chỉ tiêu nâng ngạch cuối cùng thì Hội đồng thi lập danh sách báo cáo Chánh án TANDTC quyết định người trúng tuyển ở chỉ tiêu nâng ngạch cuối cùng. - Không bảo lưu kết quả cho kỳ thi nâng ngạch lần sau. * Thông báo kết quả và phúc khảo bài thi: - Trong 15 ngày, kể từ ngày có thông báo điểm thi, công chức có quyền gửi đơn đề nghị Hội đồng thi nâng ngạch phúc khảo kết quả bài thi. - Trong 05 ngày, kể từ ngày có kết quả phúc khảo bài thi, Hội đồng thi báo cáo Chánh án TANDTC về kết quả kỳ thi, kết quả phúc khảo và danh sách công chức trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch. * Công nhận kết quả: Chậm nhất 05 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định phê duyệt kết quả kỳ thi nâng ngạch, Hội đồng thi nâng ngạch công chức có trách nhiệm thông báo kết quả thi và danh sách công chức trúng tuyển bằng văn bản tới cơ quan quản lý công chức có công chức tham dự kỳ thi. (2) Nội dung, hình thức và thời gian tổ chức thi Nội dung, hình thức thi: Thực hiện theo quy định tại Điều 37 Nghị định 138/2020/NĐ-CP, trong đó: - Thi trắc nghiệm: Môn kiến thức chung, môn ngoại ngữ và môn tin học. - Thi viết: Môn chuyên môn nghiệp vụ. Thời gian tổ chức kỳ thi: Dự kiến tháng 9/2023 (lịch thi sẽ do Hội đồng thi Tòa án nhân dân tối cao sắp xếp khi có chỉ tiêu được Bộ Nội vụ phê duyệt, sẽ có thông báo cụ thể sau). Địa điểm thi: Tòa án nhân dân tối cao. Hồ sơ đăng ký dự thi: Hồ sơ đăng ký dự kỳ thi nâng ngạch làm 01 bộ (để trong túi bìa cứng có kích thước 250x350x5mm). Hồ sơ gồm có: - Sơ yếu lý lịch theo mẫu 2C của Bộ Nội vụ có xác nhận của cơ quan quản lý, sử dụng công chức. - Bản nhận xét, đánh giá của người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng công chức về các tiêu chuẩn, điều kiện đăng ký dự thi theo quy định. - Bản sao (có chứng thực) văn bằng, chứng chỉ, đề án, đề tài... theo yêu cầu của ngạch dự thi. Xem thêm Kế hoạch 103/TANDTC-TCCB ban hành ngày 20/02/2023.
Quyết định 03/QĐ-TANDTC: Kế hoạch thanh tra TAND năm 2023
Ngày 09/01/2023, Tòa án nhân dân tối cao vừa có Quyết định 03/QĐ-TANDTC năm 2023 về phê duyệt kế hoạch thanh tra năm 2023. Theo đề nghị của Trưởng ban Ban Thanh tra Tòa án nhân dân tối cao, thực hiện việc thanh tra đối với các đối tượng sau đây: (1) Đối tượng thanh tra - Các Tòa án nhân dân cấp cao. - Một số TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện thuộc TAND cấp tỉnh được thanh tra. - Về số lượng: Năm 2023, thanh tra, kiểm tra đối với 09 đơn vị TAND; trong đó: + 03 đơn vị thuộc phạm vi quản lý theo lãnh thổ của TAND cấp cao tại Hà Nội. + 02 đơn vị thuộc phạm vi quản lý theo lãnh thổ của TAND cấp cao tại Đà Nẵng. + 04 đơn vị thuộc phạm vi quản lý theo lãnh thổ của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (đối tượng cụ do lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo quý). (2) Nội dung thanh tra Cụ thể, căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ của đối tượng thanh tra, nội dung thanh tra công vụ được lựa chọn tất cả hoặc một số nội dung như sau: - Về nội dung thanh tra công vụ. Tổ thanh tra sẽ thực hiện kiểm tra về việc chấp hành các quy định của pháp luật và các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. Thực hiện các Chỉ thị của Chánh án TAND tối cao trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của các TAND. Thanh tra trách nhiệm về việc tổ chức thực hiện Quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong TAND (ban hành theo Quyết định 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017 của Chánh án TAND tối cao) của các TAND. - Về nội dung thanh tra công tác phòng, chống tham nhũng. Theo đó, thanh tra trách nhiệm thực hiện các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng nhằm đánh giá, kết luận trách nhiệm của cơ quan, đơn vị và người đứng đầu cơ quan, đơn vị được thanh tra. Trong việc chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về công tác phòng, chống tham nhũng. - Về nội dung thanh tra công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp dân. Thanh tra về việc thực hiện các quy định của pháp luật; Chỉ thị của Chánh án TAND tối cao về giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp dân của các TAND. - Thanh tra công tác tài chính và công sản. Thanh tra, kiểm tra việc sử dụng kinh phí không thực hiện chế độ tự chủ tại các đơn vị dự toán trong hệ thống TAND. Về việc quản lý, sử dụng tài sản cố định; các dự án đầu tư xây dựng cơ bản; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các TAND khi có yêu cầu của lãnh đạo TAND tối cao. (3) Trách nhiệm của đơn vị thanh tra - Tòa án nhân dân tối cao Tổ chức các Đoàn thanh tra: Triển khai thực hiện nhiệm vụ thanh tra theo Kế hoạch này. Tại các TAND (đối tượng thanh tra) thực hiện lồng ghép các nội dung thanh tra trong một cuộc thanh tra bảo đảm thuận lợi, khoa học và công tác chuẩn bị cho đối tượng thanh tra. Trước khi tổ chức thành lập các đoàn thanh tra, cần khảo sát, đánh giá tình hình, đề xuất lãnh đạo TAND tối cao lựa chọn các đối tượng thanh tra và nội dung thanh tra cho phù hợp với tình hình thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng thanh tra. - Trưởng ban Ban Thanh tra: Đề xuất lãnh đạo TAND tối cao ra quyết định thành lập các Đoàn thanh tra để triển khai thực hiện theo từng giai đoạn, phù hợp thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của các TAND. Đồng thời, thường xuyên báo cáo lãnh đạo TAND tối cao những khó khăn, vướng mắc phát sinh để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp. - Các Đoàn thanh tra: Thực hiện nhiệm vụ thanh tra theo đúng mục đích, yêu cầu, nội dung, đối tượng theo Kế hoạch này và Quyết định thanh tra. Khi kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng ban Ban Thanh tra TAND tối cao có trách nhiệm chỉ đạo xây dựng dự thảo kết luận thanh tra trình Đồng chí Phó Chánh án TAND tối cao phụ trách và Chánh án TAND tối cao xem xét cho ý kiến chỉ đạo trước khi ký ban hành. Tổ chức thực hiện việc kết luận thanh tra tại các đơn vị Tòa án được thanh tra đúng quy định của pháp luật. Xem thêm Quyết định 03/QĐ-TANDTC có hiệu lực ngày 09/01/2023.
Hướng dẫn một số thắc mắc liên quan đến lĩnh vực tố tụng hành chính
Ngày 27/12/2022 Hội đồng Thẩm phán TANDTC có Công văn 206/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Theo đó, TANDTC thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc giải quyết các vụ án hành chính trong công tác xét xử như sau: 1. Trả hồ sơ chuyển đổi QSDĐ không có lý do Tình huống đặt ra: Ông Trần Văn H nộp hồ sơ xin chuyển đổi quyền sử dụng đất tại UBND xã B theo đúng quy định, nhưng bà Nguyễn Thị N là cán bộ của UBND xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đăng ký di biến động đất đai. Đã nhận hồ sơ đất nhưng trả lại hồ sơ cho ông H và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ đó. Không đồng ý với việc trả lại hồ sơ này, ông H có quyền khởi kiện không? Nếu có thì đối tượng khởi kiện trong trường hợp này là gì? TANDTC giải đáp thắc mắc: Theo đó, tại đoạn 2 khoản 2 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013 quy định: Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có nhu cầu nộp hồ sơ tại UBND cấp xã thì UBND cấp xã nơi có đất tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả. Trường hợp đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, UBND cấp xã phải chuyển hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai”. Như vậy, theo quy định nêu trên thì trong trường hợp này ông H có quyền khởi kiện do UBND xã B không làm đúng quy định về việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất đai. Đồng thời tại khoản 5 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013 như sau: Việc trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện như sau: - Kết quả giải quyết thủ tục hành chính phải trả cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất trong thời hạn không quá 03 ngày từ ngày có kết quả. - Trường hợp trao Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện sau khi nộp chứng từ hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định. Trường hợp thuê đất trả tiền hàng năm thì trả kết quả sau khi người sử dụng đất đã ký hợp đồng thuê đất; trường hợp được miễn nghĩa vụ tài chính liên quan đến thủ tục hành chính thì trả kết quả sau khi nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định được miễn nghĩa vụ tài chính. - Trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách nhiệm trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết. Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi nêu trên mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Như vậy, việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thủ tục hành chính về đất đai thuộc chức năng, nhiệm vụ của UBND xã B. Việc bà N là cán bộ của UBND xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đã trả lại hồ sơ mà không nêu rõ lý do là đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H. Đây là hành vi hành chính của UBND xã B mà không phải là hành vi hành chính của bà N. Đối tượng khởi kiện trong trường hợp này là hành vi hành chính của UBND xã B. 2. Thẩm quyền thụ lý của Tòa án đối với vụ kiện dự án quốc phòng Tình huống đặt ra: Người khởi kiện khởi kiện quyết định thu hồi đất liên quan đến dự án quốc phòng thì Tòa án có được thụ lý không? TANDTC giải đáp thắc mắc: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính 2015thì khiếu kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm: Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật. Do vậy, Tòa án cần phải xem xét đánh giá tài liệu chứng cứ để xác định việc thu hồi đất của dự án đó có thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng hay không. Nếu không thuộc lĩnh vực trên thì vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. 3. Có áp dụng khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015 giải quyết vụ án hành chính Tình huống đặt ra: Đối với khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc”. Vậy Tòa án có áp dụng quy định này của Bộ luật Dân sự 2015 khi giải quyết các vụ án hành chính hay không? TANDTC giải đáp thắc mắc: Căn cứ khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Đồng thời điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây: ... Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết. Ngoài ra, điểm g khoản 1 Điều 143 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết . Như vậy, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính 2015 khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hành chính mà không đưa ra điều kiện đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu như quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Do đó, trong tố tụng hành chính Tòa án không áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 149 của Bộ luật Dân sự 2015 để xác định có áp dụng thời hiệu hay không. Xem thêm Công văn 206/TANDTC-PC ngày 27/12/2022.
TANDTC giải đáp thắc mắc về lĩnh vực hình sự trong xét xử
Ngày 27/12/2022 TANDTC đã có Công văn 206/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Cụ thể, trên cơ sử các vướng mắc và giải đáp của Hội đồng thẩm phán, TANDTC thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc thuộc lĩnh vực hình sự trong công tác xét xử như sau: 1. Giải đáp thắc mắc về hình sự trong công tác xét xử 1.1 Xác định phạm tội lần đầu đối với người đủ 18 tuổi Câu hỏi: “Người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đà bị kể tán khi chưa đủ 16 tuổi thì có thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu" hay không?” TANDTC giải đáp: Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị kết án được coi là không có án tích. Do vậy, trường hợp người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đã bị kết án khi chưa đủ 16 tuổi thì thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu". 1.2 Xử lý vật chứng là bộ phận của động vật quý, hiếm Câu hỏi: “Trường hợp vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm thì Tòa án xử lý như thế nào?” TANDTC giải đáp: Theo khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 234 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự 2015 thì: Việc xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm hoặc sản phẩm của chúng được thực hiện như sau: - Vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm còn sống thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành đế trả về tự nhiên, giao cho trung tâm cứu hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia hoặc giao cho cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. - Vật chứng là cả thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy hoặc giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành của thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. - Vật chứng khác không thuộc trường hợp hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP nêu trên, đối với vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm Tòa án sẽ tuyên tịch thu hoặc tiêu hủy. 1.3 Xác định tội danh đối với hủy hoại tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên Câu hỏi: “Người có hành vi hủy hoại tài sản thuộc khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên thì phạm tội “Vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 345 Bộ luật Hình sự 2015 hay tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ” theo Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 hay cả hai tội?” TANDTC giải đáp: Trường hợp người có hành vi hủy hoại tài sản thuộc khu di tích lịch sử văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh mà hành vi hủy hoại đã làm cho tài sản của khu di tích bị hư hỏng hoặc mất giá trị sử dụng. Thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 nếu có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. 2. Giải đáp thắc mắc về tố tụng hình sự trong công tác xét xử 2.1 Thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng chỉ truy tố về 01 tội danh Câu hỏi: “Bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này nhưng chỉ truy tố về 01 tội danh. Khi xét xử, Tòa án xét xử các hành vi đã bị truy tố nhưng với 02 tội danh khác nhau thì có vi phạm quy định về giới hạn của việc xét xử hay không?” TANDTC giải đáp: Trường hợp bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này về 01 tội danh thi căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát đế điều tra bổ sung. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Khi xét xử, Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ xét xử hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. 2.2 Có đưa những người thừa kế tài sản của bị cáo đã chết vào tham gia tố tụng Câu hỏi: “Bị cáo là đồng phạm trong một vụ án, trong giai đoạn xét xử, bị cáo chết. Bị cáo có tài sản riêng đề bồi thường thiệt hại. Tòa án có đưa những người thừa kế tài sản của bị cáo đã chết vào tham gia tố tụng để giải quyết phần trách nhiệm dân sự không? Nếu có thì xác định tư cách tham tố tụng của những người này như thế nào? Khi tuyên án về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bị cáo theo hưởng buộc những người thừa kế của bị cáo phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do bị cáo để lại trong phạm vi di sản. Hay chỉ cần tuyên buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường và tách yêu cầu hoàn trả của các đồng phạm (đã thực hiện nghĩa vụ liên đời thay cho bị cáo đã chết) đối với những người thừa kế tài sản của bị cáo đề giải quyết thành vụ án dân sự khác?” TANDTC giải đáp: Trường hợp có thể giải quyết trong cùng một vụ án thì khi giải quyết phần trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại. Tòa án đưa người thừa kế tài sản của bị cáo tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường, căn cứ Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015, người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp, không thể giải quyết trong cứng vụ án hình sự thì Tòa án buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. Căn cứ quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Tòa án tách vụ án dân sự (giải quyết nghĩa vụ bồi thường giữa các bị cáo khác và người thừa kế của bị cáo) theo thủ tục tố tụng dân sự. Xem thêm Công văn 206/TANDTC-PC ngày 27/12/2022 TANDTC.
Kiến nghị bổ nhiệm suốt đời thẩm phán Tòa Tối cao
Bổ nhiệm suốt đời thẩm phán Tòa Tối cao (PLO)- Có hai luồng ý kiến khác nhau về đề xuất bổ nhiệm thẩm phán suốt đời, mỗi bên đều đưa ra những lập luận khá khoa học. Ngày 14-12, TAND Tối cao phối hợp cùng Liên minh châu Âu (EU) và Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) tổ chức hội thảo lấy ý kiến đối với dự thảo báo cáo đánh giá năm năm thi hành Luật Tổ chức TAND 2014. Về nhiệm kỳ của thẩm phán, Điều 74 luật này quy định: Nhiệm kỳ đầu là năm năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm. Nên bổ nhiệm thẩm phán suốt đời? Theo dự thảo báo cáo, quy định nhiệm kỳ tuy đã có đổi mới nhưng vẫn cần được cân nhắc thêm vì chưa tạo tâm lý yên tâm công tác cho các thẩm phán. Trong khi đó, thời gian thực hiện quy trình bổ nhiệm lại tương đối dài. Dự thảo đề nghị sửa đổi Điều 74 theo hướng bổ nhiệm không có nhiệm kỳ (bổ nhiệm suốt đời) nhằm tạo điều kiện cho thẩm phán trau dồi kinh nghiệm, kỹ năng xét xử. Đối với những thẩm phán không đủ điều kiện thì đã có quy định về cách chức thẩm phán theo quy định tại Điều 82 của luật. Đồng tình, đại diện TAND TP Hà Nội cho rằng quy định hiện hành chưa hợp lý, ít nhiều tạo tâm lý không yên tâm làm việc của thẩm phán, ngoài ra phải thực hiện nhiều lần quy trình bổ nhiệm lại gây mất thời gian. “Thực tiễn có tình trạng nhiều thẩm phán hết nhiệm kỳ nhưng chưa được bổ nhiệm lại” - vị này dẫn chứng. Vị này cũng băn khoăn trường hợp chánh án, phó chánh án hết nhiệm kỳ thẩm phán (có thể đang được xem xét bổ nhiệm lại hoặc phải tạm dừng một thời gian) nhưng vẫn còn nhiệm kỳ lãnh đạo. Vậy những trường hợp này như thế nào, có được tiếp tục điều hành tòa án không, có được ký những văn bản về tố tụng hay chỉ ký những văn bản hành chính? Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, TAND Tối cao Ngô Văn Nhàn đồng tình với đề nghị bổ nhiệm thẩm phán suốt đời nhưng cần có lộ trình thực hiện. Theo ông Nhàn, trước hết có thể áp dụng với đối tượng là thẩm phán TAND Tối cao do Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm. Thẩm phán Tòa Tối cao là ngạch thẩm phán đặc biệt với những tiêu chuẩn, điều kiện để được bổ nhiệm rất cao. Để có được các tiêu chuẩn, điều kiện này, họ phải trải qua một quá trình công tác lâu dài, năng lực và uy tín đã được thể hiện, ghi nhận qua vài chục năm công tác và là những người tuổi đã cao. Ông Nhàn nói: “Luật 2014 quy định nhiệm kỳ của thẩm phán TAND Tối cao cũng giống như nhiệm kỳ của thẩm phán sơ cấp, trung cấp, cao cấp là chưa phù hợp, chưa phản ánh được vị trí pháp lý đặc biệt của thẩm phán TAND Tối cao”. Từ đó, ông đề xuất Quốc hội cho phép kéo dài nhiệm kỳ của thẩm phán TAND Tối cao theo hướng được bổ nhiệm không thời hạn cho đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác. Điều kiện về thể chất của thẩm phán Tại hội thảo, Chánh án TAND tỉnh Lạng Sơn Nguyễn Thế Lệ nói ông đã chín năm làm chánh án tỉnh nên thấu hiểu vấn đề mà hội thảo đưa ra. Ông không đồng tình với đề xuất bổ nhiệm thẩm phán suốt đời. “Thẩm phán có rất nhiều quyền lực. Chúng ta phải có cơ chế năm năm, 10 năm để tránh việc có quyền lực suốt đời” - ông Lệ nói. Ông Lệ đặt câu hỏi: Thẩm phán đã đủ vững vàng về tư tưởng chính trị và bản lĩnh trước tác động về vật chất hay chưa? Theo ông, thẩm phán so với một số ngành, phông nền kiến thức xã hội còn hạn chế. Ông Lệ phát biểu: “Một số đồng chí ra ngoài tiếp cận thông tin về thời sự, chính trị, kinh tế - xã hội, nắm bắt tình hình để bổ trợ cho công tác chuyên môn còn hạn chế, lạc hậu lắm. Tòa án cứ quanh quẩn hồ sơ, điều nọ điều kia nhưng nhiều việc kiến thức về chính trị, kinh tế, hành chính rất ít…”. Theo ông, khi bổ nhiệm thì thẩm phán nên qua lớp bồi dưỡng về kinh tế, hành chính để có nhãn quan về địa chính trị của một tỉnh, một địa phương. Ông Lệ nêu lại hướng dẫn của Vụ Tổ chức, một trong những điều kiện khi sơ tuyển lựa chọn thẩm phán là nam cao 1,6 m, nữ cao 1,53 m. “Tất nhiên nhiều người nhỏ thông minh lắm nhưng nên chăng, điều kiện về thể chất phải bằng trung bình của người Việt trở lên. Vừa rồi một số đồng chí thấp bé nhẹ cân lắm. Tên không có, tướng không có, chưa nói nội hàm bên trong…” - ông Lệ nói. Thẩm phán phải độc lập Tại hội thảo, bà Sitara Syed, Phó Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, nhấn mạnh các tiêu chuẩn và điều kiện quốc tế về tính độc lập của ngành tư pháp được xây dựng dựa trên các cơ sở. Đó là các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tính độc lập của tòa án năm 1985 và Tuyên bố Bắc Kinh về tính độc lập tư pháp của Hiệp hội Luật châu Á - Thái Bình Dương năm 1997. Các nguyên tắc này đưa ra các nội dung thiết yếu về tính độc lập tư pháp, gồm: Độc lập về thể chế, trong xét xử và độc lập về tài chính của tòa án. Nếu thiếu các nội dung này, tòa án không thể thực hiện quyền tư pháp của mình một cách độc lập và công bằng. “Cơ quan tư pháp chỉ có thể độc lập khi tòa án hoạt động như một thể chế riêng và các thẩm phán cũng hoàn toàn độc lập” - bà Sitara Syed nhấn mạnh. ĐỨC MINH Theo báo pháp luật TP.HCM
Tòa án nhân dân tối cao sẽ không tiếp công dân nếu thuộc 05 trường hợp sau
Không tiếp công dân Đây là nội dung tại Quyết định 308/QĐ-TANDTC năm 2020 về nội quy tiếp công dân của Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, lịch tiếp công dân thường xuyên của Tòa án nhân dân tối cao tại nơi tiếp dân vào các ngày làm việc trong tuần, cụ thể như sau: - Buổi sáng: Từ 08 giờ 00’ đến 11 giờ 00’. - Buổi chiều: Từ 14 giờ 00’ đến 16 giờ 30’. Trường hợp tiếp công dân đột xuất đối với những vụ việc phức tạp, cấp thiết do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định. Người đến khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có); có đơn trình bày rõ ràng nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; cung cấp thông tin tài liệu cần thiết cho việc tiếp nhận, thụ lý vụ việc. Tuy nhiên, nếu công dân rơi vào các trường hợp sau sẽ không được tiếp nhận: 1. Người trong tình trạng say do dùng chất kích thích, người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; 2. Người có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, người tiếp công dân, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm Nội quy tiếp công dân. 3. Người khiếu nại, tố cáo về vụ việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài. 4. Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc một trong các trường hợp sau: - Bản án, quyết định tố tụng, hành vi tố tụng bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại; - Người đại diện hoặc ủy quyền không hợp pháp; - Thời hiệu khiếu nại, thời hạn khiếu nại tiếp đã hết nhưng không có lý do chính đáng; - Việc khiếu nại đã được Tòa án thụ lý để giải quyết hoặc đã có bản án, quyết định của Tòa án; các nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật và đã được trả lời đầy đủ. 5. Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Thông báo thi tuyển công chức ngạch Thư ký viên TAND năm 2020
Ngày 4/11/2020, Hội đồng tuyển dụng công chức thuộc Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông báo 688/TB-HĐTDCC về thi tuyển công chức ngạch Thư ký viên TAND năm 2020. Căn cứ danh sách ứng viên đăng ký dự tuyển công chức ngạch Thư ký viên năm 2020, trên cơ sở tiếp nhận và thẩm định hồ sơ, Hội đồng tuyển dụng công chức Tòa án nhân dân tối cao thông báo các thí sinh đủ điều kiện tham dự kỳ thi tuyển công chức ngạch Thư ký viên (có danh sách kèm theo) về địa điểm, lịch thi và thời gian thi, cụ thể như sau: 1. Thủ tục dự thi: Thí sinh có mặt tại Hội trường lớn Học viện Tòa án vào thứ 5 ngày 12/11/2020: - Từ 13 giờ 15 đến 14 giờ 00: Làm thủ tục dự thi Vòng 1 (xem số báo danh, phòng thi, bổ sung các thông tin ...); - Từ 14 giờ 00 đến 16 giờ 00: Khai mạc kỳ thi, phổ biến Quy chế thi, Nội quy thi. 2. Địa điểm thi, lịch thi và thời gian thi: a) Địa điểm thi: Thi tập trung tại Học viện Tòa án, đường 282, xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. b) Thời gian thi: Cả ngày 13/11/2020 (thứ 6). - Buổi sáng: + Từ 07 giờ 30 đến 8 giờ 00: Thí sinh tập trung tại các phòng thi (theo danh sách và số báo danh được niêm yết tại các phòng thi); + Từ 8 giờ 30 đến 9 giờ 00: Thi môn Tin học; + Từ 10 giờ 20 giờ đến 10 giờ 50: Thi môn tiếng Anh. - Buổi chiều: + Từ 14 giờ 40 đến 15 giờ 40: Thi môn Kiến thức chung. Yêu cầu: Thí sinh có mặt tại phòng thi trước thời gian thi 30 phút để làm thủ tục vào phòng thi, 3. Môn thi, hình thức thi (Vòng 1): Thi trắc nghiệm được thực hiện bằng hình thức thi trên giấy. - Môn Kiến thức chung 60 câu hỏi, thời gian thi 60 phút. - Môn Ngoại ngữ (tiếng Anh) 30 câu hỏi, thời gian thi 30 phút. - Môn Tin học 30 câu hỏi, thời gian thi 30 phút. Những thí sinh đạt yêu cầu tại vòng 1 thì đủ điều kiện tiếp tục dự thi vòng 2, danh sách, lịch thi vòng 2 cụ thể sẽ thông báo sau. Xem chi tiết thông báo và danh sách thí sinh tại file đính kèm:
TANDTC thông báo chính thức về việc “Thủ tướng bác đề xuất bán 3 cơ sở “đất vàng”?
Ngày 4/9, Tòa án nhân dân (TAND) tối cao có thông báo chính thức 358/TANDTC-VP liên quan đến việc không bán 3 cơ sở “đất vàng” ở Hà Nội. Theo đó, TANDTC nhận được phản ánh đăng trên một số báo điện tử cụ thể: Báo Tiền phong đăng bài “Thủ tướng Chính phủ bác đề xuất bán 3 cơ sở đất vàng của TAND tối cao ở Hà Nội”; “Thủ tướng yêu cầu không bán trụ sở cũ TAND tối cao để lấy tiền xây trụ sở mới” của báo Tuổi trẻ... Lý giải về vấn đề này người phát ngôn, Chánh văn phòng TANDTC thông tin chính thức về nội dung này như sau: - Tại Công văn 369/TANDTC-KHTC ngày 16/12/2019 của Chánh án TAND tối cao gửi Thủ tướng Chính phủ đề nghị: “Việc bán đấu giá một số tài sản dôi dư nhất là cơ sở 262 Đội Cấn, quận Ba Đình, TP Hà Nội với giá thấp sẽ gây thất thoát lớn cho ngân sách Nhà nước, nên đề nghị bàn giao cho Chính phủ quản lý, sử dụng hoặc bố trí cho cơ quan nhà nước khác có nhu cầu”. Tại Báo cáo 126/TANDTC-KHTC ngày 26/5/2020 của TAND tối cao gửi Thủ tướng Chính phủ về “phương án xử lý các cơ sở nhà đất của TAND tối cao tại TP Hà Nội…”, TAND tối cao đề xuất với Thủ tướng Chính phủ bàn giao 3 cơ sở nhà đất tại 262 Đội Cấn, quận Ba Đình, số 2 Văn Phú, số 2A Nguyễn Trãi, quận Hà Đông, TP Hà Nội cho Chính phủ quản lý, sử dụng hoặc bố trí cho cơ quan nhà nước có nhu cầu. Tại Công văn 6338/VPCP-CN ngày 04/8/2020 của Văn phòng Chính phủ gửi TAND tối cao, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc như sau: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đồng ý với ý kiến của Bộ Tài chính tại Công văn 7598/BTC-QLCS ngày 23/6/2020 và đề nghị của TAND tối cao không bán các cơ sở nhà đất tại: số 262 Đội Cấn, quận Ba Đình, số 2 Văn Phú, số 2A Nguyễn Trãi, quận Hà Đông, TP Hà Nội… … TAND tối cao thực hiện sắp xếp lại các cơ sở nhà, đất và đề xuất phương án phù hợp theo quy định, gửi Bộ Tài chính; Bộ Tài chính thẩm định và phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý đối với 3 cơ sở nhà, đất này theo quy định tại Nghị định 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ quy định việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quy định của pháp luật”. Như vậy, việc không bán 3 cơ sở nhà đất nêu trên do TAND tối cao đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý; không phải là Thủ tướng “bác” đề xuất của TAND tối cao như một số bài báo đã nêu. Xem chi tiết thông báo tại file đính kèm:
Danh sách 14 dự thảo án lệ năm 2020
Ảnh minh họa: Dự thảo án lệ năm 2020 Ngày 17/7/2020, TAND tối cao phối hợp với Liên minh Châu âu và Chương trình phát triển Liên Hiệp quốc tại Việt Nam (UNDP) tổ chức Hội thảo lấy ý kiến đối với 14 dự thảo án lệ nhằm góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp. Xem chi tiết các dự thảo tại file đính kèm:
Đề nghị cán bộ, công chức, VC ngành tòa án xem phim “Lựa chọn số phận”
Ngày 15/6/2020 TANDTC ban hành Công văn 209/TANDTC-BCT về việc đón xem bộ phim truyền hình “Lựa chọn số phận” phát sóng trên Kênh VTV1. Hoạt động này nhắm hướng tới kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống TAND (13/9/1945 - 13/9/2020). Đây là một bộ phim chính luận, mang ý nghĩa chính trị - xã hội và nhân văn sâu sắc. Xuyên suốt kịch bản phim là hình tượng cao đẹp của người Thẩm phán có bản lĩnh chính trị, tận tâm, tận lực vượt qua khó khăn, cạm bẫy, kiên quyết chống tội phạm. Bộ phim khắc họa đậm nét hình ảnh của người Thẩm phán, một chức danh tư pháp được nhà nước và nhân dân giao phó với nghiệp vụ xét xử sắc bén, tinh thần thượng tôn pháp luật, góp phần quyết định để hệ thống TAND hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bộ phim sẽ được phát sóng vào lúc 21 giờ từ thứ hai đến thứ sáu hàng tuần trên kênh VTV1, bắt đầu từ ngày 17-6-2020 (Thứ 4). Theo đó, TANDTC đề nghị các đồng chí quán triệt, phổ biến mục đích, ý nghĩa, thời gian phát sóng bộ phim để tòa thể cán bộ, công chức, viên chức và NLĐ TAND, tòa án quân sự các cấp chú ý đón xem.
Chánh án TAND tối cao Nguyễn Hòa Bình trả lời 'Hồ Duy Hải có oan hay không'
Sau rất nhiều tranh luận của các đại biểu Quốc hội trong và ngoài ngành tòa án về vụ án Hồ Duy Hải suốt 2 ngày thảo luận vừa qua, đích thân Chánh án TAND tối cao Nguyễn Hòa Bình đã phải lên tiếng sáng 15.6. "Hồ Duy Hải có tội không, vụ án có oan sai hay không"? Theo đó, tại phiên Quốc hội về thảo luận kinh tế - xã hội sáng 15.6, Chánh án Nguyễn Hòa Bình, cũng là chủ tọa phiên giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải, đã tập trung trả lời câu hỏi: Hồ Duy Hải có tội không, vụ án có oan sai hay không? Theo Chánh án Nguyễn Hòa Bình, đây là vụ án xảy ra từ năm 2008, trải qua tố tụng nhiều cấp, đã được liên ngành tư pháp thẩm định và năm 2015, đoàn giám sát của Quốc hội về án oan sai cũng đã xem xét vụ này. Vụ án cũng đã qua các cấp xét xử là sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và đã đến Chủ tịch nước quyết định về việc ân giảm hình phạt. "Câu chuyện đặt ra là có oan sai hay không? Tôi sẽ tập trung trả lời Hồ Duy Hải có phạm tội hay không, có oan sai hay không. Đây là câu hỏi lớn mà đại biểu quan tâm, dư luận quan tâm", Chánh án nói. Theo tóm tắt vụ án của Chánh án Nguyễn Hòa Bình thì Hồ Duy Hải quen 2 cô gái ở Bưu điện Cầu Voi (H.Thủ Thừa, tỉnh Long An) và tối 13.1.2008 có đến đấy chơi. Lúc đó, nạn nhân Nguyễn Thị Thu Vân đang trực, còn nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng đang nghỉ, nên Hải vào nói chuyện với chị Hồng. Quá trình nói chuyện, nam nữ chưa vợ, chưa chồng, Hải có tán tỉnh, sờ soạng và có ý định quan hệ tình dục với chị Hồng, nên đã đưa tiền cho chị Vân ra ngoài mua trái cây. Ở nhà, Hải dẫn chị Hồng vào buồng ngủ, vật chị Hồng ra. Chị Hồng phản ứng, đạp vào bụng Hải, bỏ chạy và la làng lên. Hải sợ bị lộ, đuổi theo. Chị Hồng vấp ngã gần 1 cái thớt, nên Hải đã dùng thớt đập vào đầu cô gái, sau đó cắt cổ nạn nhân. Chị Vân đi mua trái cây về, thấy bạn bị giết, nên cũng bị Hải giết luôn theo cách tương tự là cắt cổ. Vậy, "chứng cứ để chứng minh Hải phạm tội là gì?", Chánh án Nguyễn Hòa Bình đặt câu hỏi và trả lời: Thứ nhất, là cơ quan điều tra đã cho Hải mô tả hiện trường, thì Hải mô tả chính xác những đồ vật có tại đó - việc mà nếu không có mặt tại hiện trường thì không thể mô tả được. "Có 2 điểm lưu ý. Đầu tiên là những đồ vật trong phòng ngủ của cô Hồng, Hải đã khai đúng. Bưu điện là nơi công cộng, bên ngoài ai cũng có thể biết, nhưng trong phòng ngủ mà không có mặt ở hiện trường thì không thể biết", theo Chánh án. "Tiếp đó là vị trí những đồ vật rời, ví dụ con gấu, tờ báo, cốc nước, túi trái cây… có thể hôm nay để chỗ này, ngày mai để chỗ khác. Nhưng tất cả các đồ vật rời ấy, Hải đã mô tả đúng vị trí khi xảy ra vụ án", Chánh án nói rõ thêm. Chứng cứ thứ 2 là về diễn biến hành vi. Hải khai, quá trình sờ soạng chị Hồng không nói gì, nhưng khi bị đè ra thì chị Hồng phản ứng, đạp vào bụng Hải. Theo hiện trường để lại, áo ngực của chị Hồng bị xộc xệch, nằm ở phần trên ngực. Theo Chánh án, "phản ứng bình thường của người phụ nữ khi ngồi dậy là phải sửa cái này, nhưng do tức thời (bỏ chạy), nên cô gái không kịp sửa". Phù hợp thứ hai, theo Chánh án, là vết thương trên đỉnh đầu chị Hồng được pháp y khẳng định là "do tác động của vật cứng mặt phẳng", phù hợp với lời khai của Hải rằng hung khí gây án là thớt và bản ảnh hiện trường có cái thớt dính máu nằm bên cạnh đầu của chị Hồng. Phù hợp thứ 3 là giám định pháp y kết luận trong âm đạo của cô Hồng có dịch, và cơ chế hình thành dịch, theo bác sĩ pháp y, là quá trình kích dục, có sự đụng chạm vào vùng nhạy cảm của cơ thể. Chánh án nói gì về con dao, cái thớt "mua ở chợ"? Về tài sản cướp được, theo Chánh án Nguyễn Hòa Bình, Hải khai là sau khi giết 2 cô gái, có lấy của bưu điện một số tiền và một số simcard, lấy của 2 nạn nhân một số nữ trang, dây chuyền, vòng tay, nhẫn. Ở thời điểm khám nghiệm hiện trường, cơ quan điều tra không thể biết được Hải lấy cái gì vì không biết các cô gái có gì, nhưng Khi bắt được Hải, thì Hải khai ra lấy của cô này cái gì, lấy của cô kia cái gì. Cơ quan điều tra đã hỏi người thân, gia đình, cha mẹ các cô gái, thì người ta mô tả đúng đồ vật 2 cô gái này có. Bưu điện cũng nói rõ bị mất bao nhiêu tiền và bao nhiêu simcard. "Có một chi tiết rất đáng lưu ý, rất có giá trị chứng minh, là Hải khai lấy của cô Hồng 1 dây chuyền có mặt dây, của cô Vân không có mặt. Kết quả khám nghiệm hiện trường thì mặt dây chuyền của cô Vân có ở hiện trường, nằm trong ngực áo của cô Vân", Chánh án nêu thêm. Cũng theo Chánh án, cơ quan điều tra đã yêu cầu Hải khai tiêu thụ số tài sản này ở đâu, Hải đã vẽ chính xác địa chỉ nơi bán vàng, nơi bán điện thoại và có những chi tiết phù hợp rất ngẫu nhiên, như Hải khai lúc đến bán, ở quầy này có người phụ nữ lớn tuổi hơn bán, ở quầy này có người nhỏ tuổi hơn bán. Đặc biệt, về giá cả, cơ quan điều tra đã đi xác minh, người ta không thể nhớ được mua của ai, nhưng người ta nhớ giá ở thời điểm này, cái điện thoại này có giá 200.000 đồng, phù hợp với lời khai của Hải. Người ta khai phương thức thanh toán và giá cả của đồ trang sức mua phù hợp với phương thức thanh toán mà Hải đã khai. "Trong quá trình đi bán vàng, do sợ bị theo dõi, nên Hải không nhìn vào người mua vàng, mà đi ra ngoài đường xem có ai theo dõi không, theo lời khai của Hải. Người mua vàng khai, thông thường người ta tính số tiền trên máy tính, chìa ra cho khách xem, nếu đồng ý thì mua bán, nhưng do Hải không nhìn vào máy tính nên họ phải viết ra giấy. Hải khai có tờ giấy đó và khi ra khỏi cửa hàng thì Hải đã vứt đi", ông Bình cho biết. Giải thích thêm về hung khí, việc "mua dao, mua thớt ở chợ để làm chứng cứ", Chánh án cho biết: "Ở thời điểm khám nghiệm hiện trường, cơ quan điều tra không thể biết cái thớt là hung khí. Chỉ khi bắt được Hải, Hải khai ra việc dùng thớt đập vào đầu nạn nhân, thì người ta mới biết. Khi đó, thớt đã bị dọn đi". "Về con dao, Hải khai ở bên tường bưu điện có cái bảng và dắt dao vào bảng đó. Không ai tìm thấy dao cả, chỉ có Hải mới biết vị trí cái dao. Sau khi khám nghiệm hiện trường, có 3 anh dân phòng vào dọn phòng đó, phun nước, dỡ bảng ra thì có dao rơi xuống, nhưng người ta sơ xuất vứt dao đi. Cơ quan điều tra đi tìm dao đó không được, nên cho 3 anh dân phòng mô tả, đi mua dao về". "Dư luận nói rằng mua dao ngoài chợ về để thay hung khí, nhưng trong hồ sơ vụ án, không có cái nào mua dao là thay hung khí cả. Mua dao, thớt, vật tương tự về để Hải và những người liên quan nhận diện xem có đúng là được sử dụng làm hung khí hay không. Khi để một loạt dao, Hải nhận diện đúng con dao dùng để gây án, dù khi khai thì lời khai không thống nhất", Chánh án cho biết thêm. Do thời gian có hạn, Chánh án Nguyễn Hòa Bình cho biết còn rất nhiều chứng cứ khác mà nếu đại biểu quan tâm, TAND tối cao sẵn sàng phục vụ trao đổi, thông tin. Chánh án cũng nói thêm việc Hồ Duy Hải có 25 lời khai nhận tội, mà lời khai nhận tội đầu tiên là do Hải tự viết ra, chứ không phải là bản hỏi. Ở những thời điểm quan trọng của vụ án, Hải đều nhận tội, như khi nhận kết luận điều tra, cáo trạng. Sau sơ thẩm, phúc thẩm, khi gửi đơn cho Chủ tịch nước, Hải đều không kêu oan, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt. Người kêu oan nhiều nhất là mẹ của Hải. Sau khi Chánh án giải trình, đại biểu Trương Văn Nọ (đại biểu Quốc hội tỉnh Long An) cũng lên tiếng về vụ án. Theo đại biểu, sau phiên giám đốc thẩm, đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An chưa nhận được phản ánh, ý kiến nào của nhân dân, cử tri gửi đến đoàn đại biểu Quốc hội. Mặt trận Tổ quốc tỉnh Long An cũng đã tổ chức tiếp xúc cử tri trên 15 huyện, thị, thành phố toàn tỉnh Long An. Đến thời điểm này, không có một ý kiến nào của bà con cử tri liên quan đến vụ án này. "Tôi xin báo cáo thêm để đại biểu Quốc hội nắm tình hình ý kiến của bà con cử tri trên địa bàn tỉnh Long An", đại biểu Nọ cho biết (Lê Hiệp ghi) Theo Thanh niên
Tổng hợp các văn bản giải đáp vướng mắc của Tòa án nhân dân tối cao
Để phục vụ học tập, nghiên cứu dưới đây mình có tổng hợp một số nội dung gồm các công văn hướng dẫn nghiệp vụ của TANDTC. - Công văn 64/TANDTC-PC ngày 03/04/2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính - Công văn 212/TANDTC-PC ngày 13/09/2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến vướng mắc trong xét xử - Công văn 79/TANDTC-PC năm 2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến 64/TANDTC-PC - Công văn 59/TANDTC-PC năm 2019 hướng dẫn bổ sung về nghiệp vụ triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính - Công văn 232/TANDTC-PC năm 2018 về quán triệt thực hiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự - Công văn 160/TANDTC-PC năm 2018 một số biểu mẫu về tha tù trước thời hạn có điều kiện - Công văn 01/GĐ-TANDTC năm 2018 về giải đáp vấn đề nghiệp vụ - Văn bản 01/2017/GĐ-TANDTC giải đáp vấn đề nghiệp vụ - Văn bản 02/GĐ-TANDTC năm 2018 giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính - Văn bản 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/04/2017 giải đáp vấn đề nghiệp vụ - Văn bản 01/GĐ-TANDTC năm 2016 giải đáp vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự - Văn bản 02/GĐ-TANDTC năm 2016 giải đáp vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự do
05 giải đáp vướng mắc của Tòa tối cao về các tranh chấp khi ly hôn
Dưới đây là nội dung tổng hợp các giải đáp vướng mắc pháp lý liên quan đến các tranh chấp khi ly hôn (con cái, tài sản,...) của tòa án tối cao. 1. Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà nguyên đơn và bị đơn đều cư trú ở hai nơi khác nhau, tài sản là bất động sản lại ở nơi khác thì Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết? Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà có tranh chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án được xác định theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; cụ thể là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn thì Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn có thẩm quyền giải quyết. 2. Trong vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến con chưa thành niên mà đương sự thuận tình ly hôn và thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Tòa án có phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án không? Khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án”. Quy định này thể hiện tính chất đặc thù của vụ án hôn nhân và gia đình, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con. Do vậy, đối với vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến người chưa thành niên, việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân phát sinh tranh chấp là bắt buộc. 3. Theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên... Như vậy, có được hiểu rằng chỉ những vụ án có tranh chấp về nuôi con mới lấy ý kiến của con? Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: "...con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Vậy áp dụng quy định nào mới đúng? - Đoạn thứ 2 khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên và các thủ tục tố tụng khác đối với người chưa thành niên phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người chưa thành niên, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên”. - Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về thuận tình ly hôn quy định: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đảng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”. - Khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Theo các quy định nêu trên, để bảo đảm quyền lợi của người con, Tòa án phải lấy ý kiến của người con, xem xét nguyện vọng của người con từ đủ 07 tuổi trở lên; phương pháp lấy ý kiến phải bảo đảm thân thiện với trẻ em. Tuy nhiên, Tòa án phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của người con để quyết định giao cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng. 4. Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành, theo quy định khoản 5 Điều 397 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, xóa sổ thụ lý giải quyết việc dân sự và thụ lý vụ án ly hôn, chia tài sản chung vợ chồng thì tiền tạm ứng án phí và lệ phí giải quyết việc dân sự đã nộp được giải quyết như thế nào? Khoản 5 Điều 397 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án không phải thông báo về việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án được thực hiện theo thủ tục chung do Bộ luật này quy định”. Khoản 5 Điều 25 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định: “Trường hợp đình chỉ việc dân sự và thụ lý vụ án để giải quyết theo quy định tại khoản 5 Điều 397 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án phải yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng án phí dân sự giải quyết vụ án theo thủ tục chung”. Căn cứ vào các quy định nêu trên, khi giải quyết vụ án, Tòa án phải xác định tư cách tố tụng của các đương sự, theo đó, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trường hợp đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí thì được khấu trừ số tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đã nộp; nếu chưa đủ thì phải nộp phần còn thiếu; trường hợp đương sự không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì số tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đã nộp sẽ được giải quyết khi Tòa án quyết định án phí. 5. Trường hợp vụ án tranh chấp chia tài sản là bất động sản sau khi ly hôn mà nơi cư trú của bị đơn và nơi có bất động sản tranh chấp khác nhau thì Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết? Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”. Trường hợp này, quan hệ hôn nhân chấm dứt do vợ chồng đã ly hôn, nhưng tranh chấp tài sản sau ly hôn vẫn là tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên căn cứ các quy định nêu trên thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết. Căn cứ: Văn bản 01/2017/GĐ-TANDTC giải đáp vấn đề nghiệp vụ do Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến vướng mắc trong xét xử do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
TAND cấp cao tuyển dụng công chức
Mới: Thêm 09 đơn vị phải dừng cấp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học Các trường hợp Cơ quan nhà nước được phép từ chối tiếp công dân Ngày 4/10/2019 TANCTC ban hành Thông báo 786/TB-TANDTC về việc tuyển dụng công chức làm việc tại TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019. Cụ thể như sau:
Điểm mới về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Những điểm mới về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 so với Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002. Theo quy định tại các Điều 22, 23 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 và các Điều 21, 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 có những điểm mới sau: - Về số thành viên của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Theo quy định tại Khoản 1, Điều 22 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014 số lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới 13 người và không quá 17 người. Trong khi đó, theo Khoản 3, Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 chỉ quy định tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không quá 17 người. - Về thành phần của Hội đồng: Khác với quy định Khoản 2, Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 thành phần Hội đồng bao gồm: Chánh án, các Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; một số Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì tại Khoản 1, Điều 22 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014 quy định thành phần Hội đồng Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bao gồm Chánh án, các Phó Chánh án Tòa nhân dân tối cao là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. - Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng: So với Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định mở rộng phạm vi quyền hạn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử. Hội đồng có quyền thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của Tòa án nhân dân để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; tham gia ý kiến đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết để trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao còn có quyền được thảo luận, cho ý kiến đối với dự thảo văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và dự thảo văn bản pháp luật giữa Tòa án nhân dân tối cao với cơ quan có liên quan theo quy định của Luật ban hành văn bản pháp luật. - Về hiệu lực pháp luật của quyết định do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đưa ra: Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 khẳng định quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất. Theo đó, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị (Khoản 4 Điều 22). - Về việc tổ chức xét xử của Hội đồng: Theo quy định của Khoản 1, Điều 23 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán hoặc toàn thể Thẩm phánTòa án nhân dân tối cao. Trong khi đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 không có quy định cụ thể vấn đề này.
HĐTP TANDTC hướng dẫn chi tiết các trường hợp vợ/chồng được đơn phương ly hôn
Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2024. Trong đó có hướng dẫn chi tiết các trường hợp vợ/chồng được đơn phương ly hôn. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf Ai được quyền yêu cầu đơn phương ly hôn? Theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì các đối tượng sau đây có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn: - Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. - Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. - Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Như vậy, pháp luật hiện nay quy định chung các đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn thuận tình và đơn phương ly hôn. Theo đó, nếu thuộc trường hợp được đơn phương ly hôn thì các đối tượng trên sẽ có quyền yêu cầu đơn phương ly hôn. Khi nào vợ/chồng được đơn phương ly hôn Ly hôn theo yêu cầu của một bên được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: - Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. -Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. - Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia. Như vậy, nếu thuộc một trong những trường hợp trên thì vợ/chồng được quyền đơn phương ly hôn. Tuy nhiên, trường hợp bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được trước đây chưa có quy định cụ thể là như thế nào. Ngày 24/4/2024 Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (HĐTP TANDTC) đã thông qua Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, có hiệu lực từ ngày 1/7/2024. Tại đây, HĐTP TANDTC đã có hướng dẫn chi tiết trường hợp trên. Hướng dẫn chi tiết các trường hợp vợ/chồng được đơn phương ly hôn Theo Điều 4 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn về ly hôn theo yêu cầu của một bên quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: - "Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình" là vợ, chồng có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Cụ thể khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 quy định những hành vi sau đây là hành vi bạo lực gia đình: + Hành hạ, ngược đãi, đánh đập, đe dọa hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng; + Lăng mạ, chì chiết hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; + Cưỡng ép chứng kiến bạo lực đối với người, con vật nhằm gây áp lực thường xuyên về tâm lý; + Bỏ mặc, không quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc thành viên gia đình là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; không giáo dục thành viên gia đình là trẻ em; + Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới, giới tính, năng lực của thành viên gia đình; + Ngăn cản thành viên gia đình gặp gỡ người thân, có quan hệ xã hội hợp pháp, lành mạnh hoặc hành vi khác nhằm cô lập, gây áp lực thường xuyên về tâm lý; + Giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; + Tiết lộ hoặc phát tán thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm; + Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn của vợ hoặc chồng; + Cưỡng ép trình diễn hành vi khiêu dâm; cưỡng ép nghe âm thanh, xem hình ảnh, đọc nội dung khiêu dâm, kích thích bạo lực; +Cưỡng ép tảo hôn, kết hôn, ly hôn hoặc cản trở kết hôn, ly hôn hợp pháp; + Cưỡng ép mang thai, phá thai, lựa chọn giới tính thai nhi; + Chiếm đoạt, hủy hoại tài sản chung của gia đình hoặc tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình; + Cưỡng ép thành viên gia đình học tập, lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát tài sản, thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng lệ thuộc về mặt vật chất, tinh thần hoặc các mặt khác; + Cô lập, giam cầm thành viên gia đình; + Cưỡng ép thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp trái pháp luật. - “Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” là vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người kia. Ví dụ: Vợ, chồng phá tán tài sản gia đình. - “Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” là thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Không có tình nghĩa vợ chồng, ví dụ: vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vợ, chồng sống ly thân, bỏ mặc vợ hoặc chồng; + Vợ, chồng có quan hệ ngoại tình; + Vợ, chồng xúc phạm nhau, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh thần hoặc gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của nhau; + Không bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Theo đó, HĐTP TANDTC đã có hướng dẫn chi tiết về các trường hợp vợ/chồng được quyền đơn phương ly hôn. Người đọc có thể tham khảo để áp dụng vào trường hợp của mình. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf
Trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC
Vừa qua ngày 16/5/2024 Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP. Trong đó, có hướng dẫn về các trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf Vợ/chồng chết thì di sản được phân chia thế nào? Theo Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết: - Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản. - Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. - Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự. - Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác. Đồng thời, các trường hợp hạn chế phân chia di sản được quy định tại Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: - Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia. - Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm. Như vậy, việc phân chia di sản của vợ/chồng khi mất hiện nay sẽ được thực hiện theo quy định trên. Đồng thời, tại Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (HĐTP TANDTC) có hướng dẫn cụ thể về trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng. Trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC Theo Điều 5 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn về hạn chế phân chia di sản của vợ, chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 như sau: Việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình theo quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 và Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 là trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất... Ví dụ 1: Trước khi kết hôn, anh A mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 35 m. Sau đó anh A kết hôn với chị B và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh được một người con thì anh A chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu cầu chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào khác và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không thể chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là ngôi nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con. Ví dụ 2: Anh C và chị D kết hôn với nhau và mua được ngôi nhà có diện tích 35 mẻ. Sau khi sinh được một người con thì anh C chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia di sản do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này. Chị D và con không có chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng không có khả năng. Trong trường hợp này, việc chia di sản thừa kế phần nhà của anh C trong ngôi nhà có diện tích 35 m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị D và con. Như vậy, theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC, trường hợp vợ/chồng chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì người còn lại và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất… thì người còn lại có quyền yêu cầu xác định di sản nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf
TANDTC lấy ý kiến Dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn giải quyết tranh chấp về đặt cọc
Tòa án nhân dân tối cao đang Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/22/du-thao-giai-quyet-tranh-chap.pdf Dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc (Lần 2.1). https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/22/to-trinh-giai-quyet-tranh-chap-dat-coc.pdf Tờ trình Dự thảo Nghị quyết. (1) Hiệu lực của đặt cọc Theo Dự thảo Nghị quyết (Lần 2.1), thỏa thuận về đặt cọc là giao dịch dân sự quy định tại Điều 116 Bộ Luật Dân sự 2015 và có hiệu lực khi nó đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 117 Bộ Luật Dân sự 2015. Đồng thời, việc đặt cọc sẽ có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận đặt cọc nắm giữ tài sản đặt cọc. Ví dụ: Các bên ký HĐ viết tay chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mà trong đó ghi nhận bên nhận chuyển nhượng giao cho bên chuyển nhượng một khoản tiền để đảm bảo giao kết và thực hiện việc chuyển nhượng. Ngay sau khi ký hợp đồng, bên nhận chuyển nhượng giao khoán tiền cho bên chuyển nhượng. Tại đây, tính từ thời điểm bên chuyển nhượng nhận tiền thì HĐ đặt cọc sẽ có hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Tại đây, Dự thảo Nghị quyết (Lần 2.1) cũng nêu rõ trường hợp đặt cọc chỉ để đảm đảm cho việc giao kết hoặc thực hiện HĐ hoặc vừa để bảo đảm cho việc giao kết vừa để bảo đảm cho việc thực hiện thì khi HĐ không giao kết, thực hiện được hoặc vô hiệu thì không đương nhiên làm cho thỏa thuận đặt cọc bị vô hiệu. (2) Mức phạt cọc Theo Điều 6 Dự thảo Nghị quyết (Lần 2.1), phạt cọc là thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của luật, theo đó nếu bên nhận đặt cọc từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng thì ngoài việc phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc còn phải trả cho bên đặt cọc một khoản tiền. Trường hợp giữa các bên không có thỏa thuận về phạt cọc thì trường hợp bên nhận đặt cọc từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng thì nếu bên đặt cọc yêu cầu, bên nhận đặt cọc vẫn phải trả cho bên đặt cọc một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc. Tại đây, Dự thảo Nghị quyết (Lần 2.1) đề xuất 02 phương án như sau: Phương án 01: Bên đặt cọc và bên nhận đặt cọc có thể thỏa thuận mức tiền phạt cọc khác với mức “một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc” được quy định tại Khoản 2 Điều 328 Bộ Luật Dân sự 2015. Phương án 02: Bên đặt cọc và bên nhận đặt cọc có thể thỏa thuận mức tiền phạt cọc khác nêu trên nhưng không được vượt quá năm lần mức tiền đặt cọc. Trường hợp bên đặt cọc và bên nhận đặt cọc thỏa thuận về mức phạt cọc vượt quá 05 lần giá trị tài sản đặt cọc thì khi giải quyết tranh chấp, Tòa án chỉ chấp nhận phạt cọc bằng 05 lần mức tiền đặt cọc. (3) Trường hợp có tranh chấp về phạt cọc mà các bên không có thỏa thuận về việc xử lý Theo Dự thảo Nghị quyết, trường hợp các bên không có thỏa thuận khác về việc xử lý đặt cọc mà xảy ra tranh chấp thì sẽ thực hiện như sau: - Trường hợp đặt cọc để đảm bảo giao kết/thực hiện HĐ: Tại đây, bên nào có lỗi làm cho hợp đồng không được giao kết hoặc không được thực hiện hoặc bị vô hiệu thì phải chịu phạt cọc theo quy định tại Khoản 2 Điều 328 Bộ Luật Dân sự 2015. - Trường hợp đặt cọc để đảm bảo giao kết mà trong quá trình thực hiện mới có vi phạm làm cho HĐ không được thực hiện hoặc mới phát hiện HĐ bị vô hiệu thì không phạt cọc. Việc giải quyêt tranh châp về vi phạm HĐ hoặc xử lý HĐ vô hiệu sẽ được thực hiện theo thủ tục chung. - Trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc luật có quy định điều kiện nếu đặt cọc bị vô hiệu là HĐ cũng bị vô hiệu, thì HĐ đương nhiên bị vô hiệu khi đặt cọc đó bị vô hiệu. Việc xử lý đặt cọc bị vô hiệu và HĐ bị vô hiệu được thực hiện theo quy định tại Điều 131 Bộ Luật Dân sự 2015. Tại đây, Dự thảo Nghị quyết (Lần 2.1) cũng đưa ra ví dụ cho trường hợp này như sau: Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng mua bán nhà. Khi giao kết hai bên thỏa thuận B (bên mua) phải giao cho A (bên bán) một chiếc xe ô tô thể thao đế đặt cọc bảo đảm cho việc giao kết và thực hiện HĐ mua bán nhà ở với điều kiện khi HĐ mua bán nhà ở được giao kết và thực hiện thì giá trị chiếc xe ô tô thể thao đó phải được trừ vào tiền mua bán nhà và nếu A không nhận được chiếc xe ô tô đó do việc đặt cọc bị vô hiệu thì HĐ cũng bị vô hiệu. Khi bắt đầu thực hiện HĐ thì phát hiện chiếc xe ô tô đó là của ông C (bố B) và ông C không đồng ý cho B lấy chiếc xe ô tô đó trừ vào tiền mua nhà. Có nghĩa là việc đặt cọc bị vô hiệu và do đó trong trường hợp này HĐ mua bán nhà cũng bị vô hiệu theo. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/22/to-trinh-giai-quyet-tranh-chap-dat-coc.pdf Tờ trình Dự thảo Nghị quyết. https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/22/du-thao-giai-quyet-tranh-chap.pdf Dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc (Lần 2.1).
Quyết định 39/QĐ-CA: Thêm 07 án lệ được Tòa án nhân dân tối cao công bố
Ngày 24/02/2023 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định 39/QĐ-CA năm 2023 về việc công bố thêm 07 án lệ. Theo đó, 04 án lệ được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua và được áp dụng kể từ ngày 27/03/2023 bao gồm: (1) Án lệ số 57/2023/AL về hành vi gian dối nhằm tiếp cận tài sản trong tội “Cướp giật tài sản” - Nguồn án lệ: Bản án hình sự phúc thẩm số 590/2020/HS-PT ngày 18/12/2020 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Cướp giật tài sản ” đối với bị cáo Nguyễn Thành Quốc B. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 4 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Bị cáo dùng thủ đoạn gian dối để người quản lý tài sản chuyển giao tài sản cho bị cáo, sau đó lợi dụng sơ hở để nhanh chóng tẩu thoát. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cướp giật tài sản”. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). (2) Án lệ số 58/2023/AL về tình tiết định khung hình phạt tại điểm c khoản 3 Điều 244 Bộ luật Hình sự 2015 - Nguồn án lệ: Bản án hình sự sơ thẩm số 179/2018/HSST ngày 14/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh về vụ án “P7 phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ” đối với bị cáo Hoàng Đình Q. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 13, 16 và 18 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Bị cáo có hành vi vận chuyển 05 cá thể hổ và 01 bộ phận không thể tách rời sự sống của cá thể hổ thứ 06. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 244 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: + Điều 244 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); + Điều 4 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 234 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự 2015. (3) Án lệ số 59/2023/AL về lỗi cố ý gián tiếp trong vụ án “Giết người” - Nguồn án lệ: Bản án phúc thẩm số 50/2020/HS-PT ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái về vụ án “Giết người” đối với các bị cáo Triệu Văn M, Đặng Văn T. - Vi trí nội dung án lệ: Đoạn 3, 4 và 5 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Bị cáo dùng hung khí nguy hiểm tấn công bị hại. BỊ hại điều khiển xe mô tô bỏ chạy, bị cáo tiếp tục truy đuổi làm bị hại lo sợ phải tăng tốc bỏ chạy. Khi bị hại bị tai nạn thì bị cáo mới dừng việc truy đuổi. Bị hại tử vong trên đường đi cấp cứu. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” với lỗi cố ý gián tiếp. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). (4) Án lệ số 60/2023/AL về thời hạn trả thưởng xổ số kiến thiết - Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 239/2022/DS-GDT ngày 05/9/2022 của Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp trả thưởng tiền xổ số kiến thiết” giữa nguyên đơn là ông Thái Hữu T với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xổ số kiến thiết A. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 2, 3, 4, 6 và 7 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Thể lệ tham gia dự thưởng của công ty xổ số kiến thiết xác định thời hạn trả thưởng đối với vé số trúng thưởng được tính theo ngày. - Giải pháp pháp lỷ: Trường hợp này, Tòa án phải xác định ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 147 Bộ luật Dân sự 2015; ngày cuối cùng của thời hạn trả thưởng được xác định theo quy định tại Điều 148 Bộ luật Dân sự 2015. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: + Khoản 2 Điều 147, khoản 1, 5 và 6 Điều 148 Bộ luật Dân sự 2015. + Khoản 1 Điều 30 Thông tư 75/2013/TT-BTC ngày 4/6/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết về hoạt động kinh doanh xổ số. (5) Án lệ 61/2023/AL về chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi chưa thành niên - Nguồn án lệ: Quyết định sơ thẩm số 87/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai về việc “Yêu cầu chẩm việc nuôi con nuôi ”, người yêu cầu là ông Trần Công T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Thanh H và chị Trần Thị Thảo TI. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 7, 8 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Cha đẻ, mẹ đẻ và cha nuôi, mẹ nuôi thống nhất giao lại con nuôi chưa thành niên cho cha đẻ, mẹ đẻ tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; con nuôi có nguyện vọng được về sống với cha đẻ, mẹ đẻ và cha nuôi, mẹ nuôi có yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải chấp nhận yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: + Các điều 25, 26 và 27 Luật Nuôi con nuôi 2010; + Điều 78 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. (6) Án lệ số 62/2023/AL về thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên trong vụ án tranh chấp về xác định cha cho con - Nguồn án lệ: Bản án phúc thẩm số 07/2018/HN-PT ngày 22/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về vụ án hôn nhân và gia đình “Xác định cha cho con, cấp dưỡng nuôi con ” giữa nguyên đơn là chị Lê Thị D với bị đơn là anh Trịnh Vinh C. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 4 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Sau khi người con được sinh ra, người mẹ khởi kiện yêu cầu xác định bị đơn là cha đẻ của người con và yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên. Tòa án xác định bị đơn là cha đẻ của người con và có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải xác định thời gian cấp dưỡng cho con chưa thành niên được tính kể từ khi người con được sinh ra. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Khoản 24 Điều 3, Điều 107, Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. (7) Án lệ số 63/2023/AL về xem xét quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện - Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 04/2018/HC-GĐT ngày 23/10/2018 của Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng về vụ án hành chính “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm trật tự đô thị và yêu cầu đòi bồi thường do hành vi cưỡng chế gây ra ” giữa người khởi kiện là ông Lê Hữu T, bà Lê Thị Ngọc L với người bị kiện là Chủ tịch UBND phường A. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 15 phần “Nhận định của Tòa án”. - Tình huống án lệ: Người khởi kiện khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính nhưng chỉ có hành vi hành chính còn thời hiệu khởi kiện. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Toà án phải giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với hành vi hành chính và có quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 6, Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015. Xem thêm Quyết định 39/QĐ-CA có hiệu lực ngày 24/02/2023.
Nâng ngạch TAND: Trường hợp 2 người cùng điểm sẽ do Chánh án TANDTC quyết định
Ngày 20/02/2023 Tòa án nhân dân tối cao ban hành Kế hoạch 103/TANDTC-TCCB tổ chức thi nâng ngạch cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính năm 2023. Theo đó, nhằm xác định người trúng tuyển nâng ngạch thì đối với trường hợp 2 người thi trở lên có cùng tổng điểm sẽ do Chánh án TANDTC quyết định. (1) Xác định người trúng tuyển và thông báo kết quả * Việc xác định người trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch công chức phải có đủ các điều kiện sau: - Có số câu trả lời đúng từ 50% số câu hỏi trở lên cho từng môn thi, trừ trường hợp miễn thi. - Có kết quả điểm bài thi môn chuyên môn nghiệp vụ đạt từ 50 điểm trở lên và lấy theo thứ tự điểm từ cao xuống thấp trong phạm vi chỉ tiêu nâng ngạch được giao. - Trường hợp có từ 02 người trở lên có tổng kết quả điểm bài thi môn chuyên môn nghiệp vụ bằng nhau ở chỉ tiêu nâng ngạch cuối cùng thì Hội đồng thi lập danh sách báo cáo Chánh án TANDTC quyết định người trúng tuyển ở chỉ tiêu nâng ngạch cuối cùng. - Không bảo lưu kết quả cho kỳ thi nâng ngạch lần sau. * Thông báo kết quả và phúc khảo bài thi: - Trong 15 ngày, kể từ ngày có thông báo điểm thi, công chức có quyền gửi đơn đề nghị Hội đồng thi nâng ngạch phúc khảo kết quả bài thi. - Trong 05 ngày, kể từ ngày có kết quả phúc khảo bài thi, Hội đồng thi báo cáo Chánh án TANDTC về kết quả kỳ thi, kết quả phúc khảo và danh sách công chức trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch. * Công nhận kết quả: Chậm nhất 05 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định phê duyệt kết quả kỳ thi nâng ngạch, Hội đồng thi nâng ngạch công chức có trách nhiệm thông báo kết quả thi và danh sách công chức trúng tuyển bằng văn bản tới cơ quan quản lý công chức có công chức tham dự kỳ thi. (2) Nội dung, hình thức và thời gian tổ chức thi Nội dung, hình thức thi: Thực hiện theo quy định tại Điều 37 Nghị định 138/2020/NĐ-CP, trong đó: - Thi trắc nghiệm: Môn kiến thức chung, môn ngoại ngữ và môn tin học. - Thi viết: Môn chuyên môn nghiệp vụ. Thời gian tổ chức kỳ thi: Dự kiến tháng 9/2023 (lịch thi sẽ do Hội đồng thi Tòa án nhân dân tối cao sắp xếp khi có chỉ tiêu được Bộ Nội vụ phê duyệt, sẽ có thông báo cụ thể sau). Địa điểm thi: Tòa án nhân dân tối cao. Hồ sơ đăng ký dự thi: Hồ sơ đăng ký dự kỳ thi nâng ngạch làm 01 bộ (để trong túi bìa cứng có kích thước 250x350x5mm). Hồ sơ gồm có: - Sơ yếu lý lịch theo mẫu 2C của Bộ Nội vụ có xác nhận của cơ quan quản lý, sử dụng công chức. - Bản nhận xét, đánh giá của người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng công chức về các tiêu chuẩn, điều kiện đăng ký dự thi theo quy định. - Bản sao (có chứng thực) văn bằng, chứng chỉ, đề án, đề tài... theo yêu cầu của ngạch dự thi. Xem thêm Kế hoạch 103/TANDTC-TCCB ban hành ngày 20/02/2023.
Quyết định 03/QĐ-TANDTC: Kế hoạch thanh tra TAND năm 2023
Ngày 09/01/2023, Tòa án nhân dân tối cao vừa có Quyết định 03/QĐ-TANDTC năm 2023 về phê duyệt kế hoạch thanh tra năm 2023. Theo đề nghị của Trưởng ban Ban Thanh tra Tòa án nhân dân tối cao, thực hiện việc thanh tra đối với các đối tượng sau đây: (1) Đối tượng thanh tra - Các Tòa án nhân dân cấp cao. - Một số TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện thuộc TAND cấp tỉnh được thanh tra. - Về số lượng: Năm 2023, thanh tra, kiểm tra đối với 09 đơn vị TAND; trong đó: + 03 đơn vị thuộc phạm vi quản lý theo lãnh thổ của TAND cấp cao tại Hà Nội. + 02 đơn vị thuộc phạm vi quản lý theo lãnh thổ của TAND cấp cao tại Đà Nẵng. + 04 đơn vị thuộc phạm vi quản lý theo lãnh thổ của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (đối tượng cụ do lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo quý). (2) Nội dung thanh tra Cụ thể, căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ của đối tượng thanh tra, nội dung thanh tra công vụ được lựa chọn tất cả hoặc một số nội dung như sau: - Về nội dung thanh tra công vụ. Tổ thanh tra sẽ thực hiện kiểm tra về việc chấp hành các quy định của pháp luật và các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. Thực hiện các Chỉ thị của Chánh án TAND tối cao trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của các TAND. Thanh tra trách nhiệm về việc tổ chức thực hiện Quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong TAND (ban hành theo Quyết định 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017 của Chánh án TAND tối cao) của các TAND. - Về nội dung thanh tra công tác phòng, chống tham nhũng. Theo đó, thanh tra trách nhiệm thực hiện các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng nhằm đánh giá, kết luận trách nhiệm của cơ quan, đơn vị và người đứng đầu cơ quan, đơn vị được thanh tra. Trong việc chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về công tác phòng, chống tham nhũng. - Về nội dung thanh tra công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp dân. Thanh tra về việc thực hiện các quy định của pháp luật; Chỉ thị của Chánh án TAND tối cao về giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp dân của các TAND. - Thanh tra công tác tài chính và công sản. Thanh tra, kiểm tra việc sử dụng kinh phí không thực hiện chế độ tự chủ tại các đơn vị dự toán trong hệ thống TAND. Về việc quản lý, sử dụng tài sản cố định; các dự án đầu tư xây dựng cơ bản; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các TAND khi có yêu cầu của lãnh đạo TAND tối cao. (3) Trách nhiệm của đơn vị thanh tra - Tòa án nhân dân tối cao Tổ chức các Đoàn thanh tra: Triển khai thực hiện nhiệm vụ thanh tra theo Kế hoạch này. Tại các TAND (đối tượng thanh tra) thực hiện lồng ghép các nội dung thanh tra trong một cuộc thanh tra bảo đảm thuận lợi, khoa học và công tác chuẩn bị cho đối tượng thanh tra. Trước khi tổ chức thành lập các đoàn thanh tra, cần khảo sát, đánh giá tình hình, đề xuất lãnh đạo TAND tối cao lựa chọn các đối tượng thanh tra và nội dung thanh tra cho phù hợp với tình hình thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng thanh tra. - Trưởng ban Ban Thanh tra: Đề xuất lãnh đạo TAND tối cao ra quyết định thành lập các Đoàn thanh tra để triển khai thực hiện theo từng giai đoạn, phù hợp thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của các TAND. Đồng thời, thường xuyên báo cáo lãnh đạo TAND tối cao những khó khăn, vướng mắc phát sinh để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp. - Các Đoàn thanh tra: Thực hiện nhiệm vụ thanh tra theo đúng mục đích, yêu cầu, nội dung, đối tượng theo Kế hoạch này và Quyết định thanh tra. Khi kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng ban Ban Thanh tra TAND tối cao có trách nhiệm chỉ đạo xây dựng dự thảo kết luận thanh tra trình Đồng chí Phó Chánh án TAND tối cao phụ trách và Chánh án TAND tối cao xem xét cho ý kiến chỉ đạo trước khi ký ban hành. Tổ chức thực hiện việc kết luận thanh tra tại các đơn vị Tòa án được thanh tra đúng quy định của pháp luật. Xem thêm Quyết định 03/QĐ-TANDTC có hiệu lực ngày 09/01/2023.
Hướng dẫn một số thắc mắc liên quan đến lĩnh vực tố tụng hành chính
Ngày 27/12/2022 Hội đồng Thẩm phán TANDTC có Công văn 206/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Theo đó, TANDTC thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc giải quyết các vụ án hành chính trong công tác xét xử như sau: 1. Trả hồ sơ chuyển đổi QSDĐ không có lý do Tình huống đặt ra: Ông Trần Văn H nộp hồ sơ xin chuyển đổi quyền sử dụng đất tại UBND xã B theo đúng quy định, nhưng bà Nguyễn Thị N là cán bộ của UBND xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đăng ký di biến động đất đai. Đã nhận hồ sơ đất nhưng trả lại hồ sơ cho ông H và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ đó. Không đồng ý với việc trả lại hồ sơ này, ông H có quyền khởi kiện không? Nếu có thì đối tượng khởi kiện trong trường hợp này là gì? TANDTC giải đáp thắc mắc: Theo đó, tại đoạn 2 khoản 2 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013 quy định: Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có nhu cầu nộp hồ sơ tại UBND cấp xã thì UBND cấp xã nơi có đất tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả. Trường hợp đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, UBND cấp xã phải chuyển hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai”. Như vậy, theo quy định nêu trên thì trong trường hợp này ông H có quyền khởi kiện do UBND xã B không làm đúng quy định về việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất đai. Đồng thời tại khoản 5 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013 như sau: Việc trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện như sau: - Kết quả giải quyết thủ tục hành chính phải trả cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất trong thời hạn không quá 03 ngày từ ngày có kết quả. - Trường hợp trao Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện sau khi nộp chứng từ hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định. Trường hợp thuê đất trả tiền hàng năm thì trả kết quả sau khi người sử dụng đất đã ký hợp đồng thuê đất; trường hợp được miễn nghĩa vụ tài chính liên quan đến thủ tục hành chính thì trả kết quả sau khi nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định được miễn nghĩa vụ tài chính. - Trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách nhiệm trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết. Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi nêu trên mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Như vậy, việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thủ tục hành chính về đất đai thuộc chức năng, nhiệm vụ của UBND xã B. Việc bà N là cán bộ của UBND xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đã trả lại hồ sơ mà không nêu rõ lý do là đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H. Đây là hành vi hành chính của UBND xã B mà không phải là hành vi hành chính của bà N. Đối tượng khởi kiện trong trường hợp này là hành vi hành chính của UBND xã B. 2. Thẩm quyền thụ lý của Tòa án đối với vụ kiện dự án quốc phòng Tình huống đặt ra: Người khởi kiện khởi kiện quyết định thu hồi đất liên quan đến dự án quốc phòng thì Tòa án có được thụ lý không? TANDTC giải đáp thắc mắc: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính 2015thì khiếu kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm: Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật. Do vậy, Tòa án cần phải xem xét đánh giá tài liệu chứng cứ để xác định việc thu hồi đất của dự án đó có thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng hay không. Nếu không thuộc lĩnh vực trên thì vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. 3. Có áp dụng khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015 giải quyết vụ án hành chính Tình huống đặt ra: Đối với khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc”. Vậy Tòa án có áp dụng quy định này của Bộ luật Dân sự 2015 khi giải quyết các vụ án hành chính hay không? TANDTC giải đáp thắc mắc: Căn cứ khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Đồng thời điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây: ... Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết. Ngoài ra, điểm g khoản 1 Điều 143 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết . Như vậy, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính 2015 khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hành chính mà không đưa ra điều kiện đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu như quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Do đó, trong tố tụng hành chính Tòa án không áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 149 của Bộ luật Dân sự 2015 để xác định có áp dụng thời hiệu hay không. Xem thêm Công văn 206/TANDTC-PC ngày 27/12/2022.
TANDTC giải đáp thắc mắc về lĩnh vực hình sự trong xét xử
Ngày 27/12/2022 TANDTC đã có Công văn 206/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Cụ thể, trên cơ sử các vướng mắc và giải đáp của Hội đồng thẩm phán, TANDTC thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc thuộc lĩnh vực hình sự trong công tác xét xử như sau: 1. Giải đáp thắc mắc về hình sự trong công tác xét xử 1.1 Xác định phạm tội lần đầu đối với người đủ 18 tuổi Câu hỏi: “Người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đà bị kể tán khi chưa đủ 16 tuổi thì có thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu" hay không?” TANDTC giải đáp: Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị kết án được coi là không có án tích. Do vậy, trường hợp người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đã bị kết án khi chưa đủ 16 tuổi thì thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu". 1.2 Xử lý vật chứng là bộ phận của động vật quý, hiếm Câu hỏi: “Trường hợp vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm thì Tòa án xử lý như thế nào?” TANDTC giải đáp: Theo khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 234 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự 2015 thì: Việc xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm hoặc sản phẩm của chúng được thực hiện như sau: - Vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm còn sống thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành đế trả về tự nhiên, giao cho trung tâm cứu hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia hoặc giao cho cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. - Vật chứng là cả thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy hoặc giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành của thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. - Vật chứng khác không thuộc trường hợp hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP nêu trên, đối với vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm Tòa án sẽ tuyên tịch thu hoặc tiêu hủy. 1.3 Xác định tội danh đối với hủy hoại tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên Câu hỏi: “Người có hành vi hủy hoại tài sản thuộc khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên thì phạm tội “Vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 345 Bộ luật Hình sự 2015 hay tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ” theo Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 hay cả hai tội?” TANDTC giải đáp: Trường hợp người có hành vi hủy hoại tài sản thuộc khu di tích lịch sử văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh mà hành vi hủy hoại đã làm cho tài sản của khu di tích bị hư hỏng hoặc mất giá trị sử dụng. Thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 nếu có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. 2. Giải đáp thắc mắc về tố tụng hình sự trong công tác xét xử 2.1 Thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng chỉ truy tố về 01 tội danh Câu hỏi: “Bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này nhưng chỉ truy tố về 01 tội danh. Khi xét xử, Tòa án xét xử các hành vi đã bị truy tố nhưng với 02 tội danh khác nhau thì có vi phạm quy định về giới hạn của việc xét xử hay không?” TANDTC giải đáp: Trường hợp bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này về 01 tội danh thi căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát đế điều tra bổ sung. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Khi xét xử, Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ xét xử hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. 2.2 Có đưa những người thừa kế tài sản của bị cáo đã chết vào tham gia tố tụng Câu hỏi: “Bị cáo là đồng phạm trong một vụ án, trong giai đoạn xét xử, bị cáo chết. Bị cáo có tài sản riêng đề bồi thường thiệt hại. Tòa án có đưa những người thừa kế tài sản của bị cáo đã chết vào tham gia tố tụng để giải quyết phần trách nhiệm dân sự không? Nếu có thì xác định tư cách tham tố tụng của những người này như thế nào? Khi tuyên án về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bị cáo theo hưởng buộc những người thừa kế của bị cáo phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do bị cáo để lại trong phạm vi di sản. Hay chỉ cần tuyên buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường và tách yêu cầu hoàn trả của các đồng phạm (đã thực hiện nghĩa vụ liên đời thay cho bị cáo đã chết) đối với những người thừa kế tài sản của bị cáo đề giải quyết thành vụ án dân sự khác?” TANDTC giải đáp: Trường hợp có thể giải quyết trong cùng một vụ án thì khi giải quyết phần trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại. Tòa án đưa người thừa kế tài sản của bị cáo tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường, căn cứ Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015, người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp, không thể giải quyết trong cứng vụ án hình sự thì Tòa án buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. Căn cứ quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Tòa án tách vụ án dân sự (giải quyết nghĩa vụ bồi thường giữa các bị cáo khác và người thừa kế của bị cáo) theo thủ tục tố tụng dân sự. Xem thêm Công văn 206/TANDTC-PC ngày 27/12/2022 TANDTC.
Kiến nghị bổ nhiệm suốt đời thẩm phán Tòa Tối cao
Bổ nhiệm suốt đời thẩm phán Tòa Tối cao (PLO)- Có hai luồng ý kiến khác nhau về đề xuất bổ nhiệm thẩm phán suốt đời, mỗi bên đều đưa ra những lập luận khá khoa học. Ngày 14-12, TAND Tối cao phối hợp cùng Liên minh châu Âu (EU) và Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) tổ chức hội thảo lấy ý kiến đối với dự thảo báo cáo đánh giá năm năm thi hành Luật Tổ chức TAND 2014. Về nhiệm kỳ của thẩm phán, Điều 74 luật này quy định: Nhiệm kỳ đầu là năm năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm. Nên bổ nhiệm thẩm phán suốt đời? Theo dự thảo báo cáo, quy định nhiệm kỳ tuy đã có đổi mới nhưng vẫn cần được cân nhắc thêm vì chưa tạo tâm lý yên tâm công tác cho các thẩm phán. Trong khi đó, thời gian thực hiện quy trình bổ nhiệm lại tương đối dài. Dự thảo đề nghị sửa đổi Điều 74 theo hướng bổ nhiệm không có nhiệm kỳ (bổ nhiệm suốt đời) nhằm tạo điều kiện cho thẩm phán trau dồi kinh nghiệm, kỹ năng xét xử. Đối với những thẩm phán không đủ điều kiện thì đã có quy định về cách chức thẩm phán theo quy định tại Điều 82 của luật. Đồng tình, đại diện TAND TP Hà Nội cho rằng quy định hiện hành chưa hợp lý, ít nhiều tạo tâm lý không yên tâm làm việc của thẩm phán, ngoài ra phải thực hiện nhiều lần quy trình bổ nhiệm lại gây mất thời gian. “Thực tiễn có tình trạng nhiều thẩm phán hết nhiệm kỳ nhưng chưa được bổ nhiệm lại” - vị này dẫn chứng. Vị này cũng băn khoăn trường hợp chánh án, phó chánh án hết nhiệm kỳ thẩm phán (có thể đang được xem xét bổ nhiệm lại hoặc phải tạm dừng một thời gian) nhưng vẫn còn nhiệm kỳ lãnh đạo. Vậy những trường hợp này như thế nào, có được tiếp tục điều hành tòa án không, có được ký những văn bản về tố tụng hay chỉ ký những văn bản hành chính? Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, TAND Tối cao Ngô Văn Nhàn đồng tình với đề nghị bổ nhiệm thẩm phán suốt đời nhưng cần có lộ trình thực hiện. Theo ông Nhàn, trước hết có thể áp dụng với đối tượng là thẩm phán TAND Tối cao do Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm. Thẩm phán Tòa Tối cao là ngạch thẩm phán đặc biệt với những tiêu chuẩn, điều kiện để được bổ nhiệm rất cao. Để có được các tiêu chuẩn, điều kiện này, họ phải trải qua một quá trình công tác lâu dài, năng lực và uy tín đã được thể hiện, ghi nhận qua vài chục năm công tác và là những người tuổi đã cao. Ông Nhàn nói: “Luật 2014 quy định nhiệm kỳ của thẩm phán TAND Tối cao cũng giống như nhiệm kỳ của thẩm phán sơ cấp, trung cấp, cao cấp là chưa phù hợp, chưa phản ánh được vị trí pháp lý đặc biệt của thẩm phán TAND Tối cao”. Từ đó, ông đề xuất Quốc hội cho phép kéo dài nhiệm kỳ của thẩm phán TAND Tối cao theo hướng được bổ nhiệm không thời hạn cho đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác. Điều kiện về thể chất của thẩm phán Tại hội thảo, Chánh án TAND tỉnh Lạng Sơn Nguyễn Thế Lệ nói ông đã chín năm làm chánh án tỉnh nên thấu hiểu vấn đề mà hội thảo đưa ra. Ông không đồng tình với đề xuất bổ nhiệm thẩm phán suốt đời. “Thẩm phán có rất nhiều quyền lực. Chúng ta phải có cơ chế năm năm, 10 năm để tránh việc có quyền lực suốt đời” - ông Lệ nói. Ông Lệ đặt câu hỏi: Thẩm phán đã đủ vững vàng về tư tưởng chính trị và bản lĩnh trước tác động về vật chất hay chưa? Theo ông, thẩm phán so với một số ngành, phông nền kiến thức xã hội còn hạn chế. Ông Lệ phát biểu: “Một số đồng chí ra ngoài tiếp cận thông tin về thời sự, chính trị, kinh tế - xã hội, nắm bắt tình hình để bổ trợ cho công tác chuyên môn còn hạn chế, lạc hậu lắm. Tòa án cứ quanh quẩn hồ sơ, điều nọ điều kia nhưng nhiều việc kiến thức về chính trị, kinh tế, hành chính rất ít…”. Theo ông, khi bổ nhiệm thì thẩm phán nên qua lớp bồi dưỡng về kinh tế, hành chính để có nhãn quan về địa chính trị của một tỉnh, một địa phương. Ông Lệ nêu lại hướng dẫn của Vụ Tổ chức, một trong những điều kiện khi sơ tuyển lựa chọn thẩm phán là nam cao 1,6 m, nữ cao 1,53 m. “Tất nhiên nhiều người nhỏ thông minh lắm nhưng nên chăng, điều kiện về thể chất phải bằng trung bình của người Việt trở lên. Vừa rồi một số đồng chí thấp bé nhẹ cân lắm. Tên không có, tướng không có, chưa nói nội hàm bên trong…” - ông Lệ nói. Thẩm phán phải độc lập Tại hội thảo, bà Sitara Syed, Phó Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, nhấn mạnh các tiêu chuẩn và điều kiện quốc tế về tính độc lập của ngành tư pháp được xây dựng dựa trên các cơ sở. Đó là các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tính độc lập của tòa án năm 1985 và Tuyên bố Bắc Kinh về tính độc lập tư pháp của Hiệp hội Luật châu Á - Thái Bình Dương năm 1997. Các nguyên tắc này đưa ra các nội dung thiết yếu về tính độc lập tư pháp, gồm: Độc lập về thể chế, trong xét xử và độc lập về tài chính của tòa án. Nếu thiếu các nội dung này, tòa án không thể thực hiện quyền tư pháp của mình một cách độc lập và công bằng. “Cơ quan tư pháp chỉ có thể độc lập khi tòa án hoạt động như một thể chế riêng và các thẩm phán cũng hoàn toàn độc lập” - bà Sitara Syed nhấn mạnh. ĐỨC MINH Theo báo pháp luật TP.HCM
Tòa án nhân dân tối cao sẽ không tiếp công dân nếu thuộc 05 trường hợp sau
Không tiếp công dân Đây là nội dung tại Quyết định 308/QĐ-TANDTC năm 2020 về nội quy tiếp công dân của Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, lịch tiếp công dân thường xuyên của Tòa án nhân dân tối cao tại nơi tiếp dân vào các ngày làm việc trong tuần, cụ thể như sau: - Buổi sáng: Từ 08 giờ 00’ đến 11 giờ 00’. - Buổi chiều: Từ 14 giờ 00’ đến 16 giờ 30’. Trường hợp tiếp công dân đột xuất đối với những vụ việc phức tạp, cấp thiết do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định. Người đến khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có); có đơn trình bày rõ ràng nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; cung cấp thông tin tài liệu cần thiết cho việc tiếp nhận, thụ lý vụ việc. Tuy nhiên, nếu công dân rơi vào các trường hợp sau sẽ không được tiếp nhận: 1. Người trong tình trạng say do dùng chất kích thích, người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; 2. Người có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, người tiếp công dân, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm Nội quy tiếp công dân. 3. Người khiếu nại, tố cáo về vụ việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài. 4. Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc một trong các trường hợp sau: - Bản án, quyết định tố tụng, hành vi tố tụng bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại; - Người đại diện hoặc ủy quyền không hợp pháp; - Thời hiệu khiếu nại, thời hạn khiếu nại tiếp đã hết nhưng không có lý do chính đáng; - Việc khiếu nại đã được Tòa án thụ lý để giải quyết hoặc đã có bản án, quyết định của Tòa án; các nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật và đã được trả lời đầy đủ. 5. Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Thông báo thi tuyển công chức ngạch Thư ký viên TAND năm 2020
Ngày 4/11/2020, Hội đồng tuyển dụng công chức thuộc Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông báo 688/TB-HĐTDCC về thi tuyển công chức ngạch Thư ký viên TAND năm 2020. Căn cứ danh sách ứng viên đăng ký dự tuyển công chức ngạch Thư ký viên năm 2020, trên cơ sở tiếp nhận và thẩm định hồ sơ, Hội đồng tuyển dụng công chức Tòa án nhân dân tối cao thông báo các thí sinh đủ điều kiện tham dự kỳ thi tuyển công chức ngạch Thư ký viên (có danh sách kèm theo) về địa điểm, lịch thi và thời gian thi, cụ thể như sau: 1. Thủ tục dự thi: Thí sinh có mặt tại Hội trường lớn Học viện Tòa án vào thứ 5 ngày 12/11/2020: - Từ 13 giờ 15 đến 14 giờ 00: Làm thủ tục dự thi Vòng 1 (xem số báo danh, phòng thi, bổ sung các thông tin ...); - Từ 14 giờ 00 đến 16 giờ 00: Khai mạc kỳ thi, phổ biến Quy chế thi, Nội quy thi. 2. Địa điểm thi, lịch thi và thời gian thi: a) Địa điểm thi: Thi tập trung tại Học viện Tòa án, đường 282, xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. b) Thời gian thi: Cả ngày 13/11/2020 (thứ 6). - Buổi sáng: + Từ 07 giờ 30 đến 8 giờ 00: Thí sinh tập trung tại các phòng thi (theo danh sách và số báo danh được niêm yết tại các phòng thi); + Từ 8 giờ 30 đến 9 giờ 00: Thi môn Tin học; + Từ 10 giờ 20 giờ đến 10 giờ 50: Thi môn tiếng Anh. - Buổi chiều: + Từ 14 giờ 40 đến 15 giờ 40: Thi môn Kiến thức chung. Yêu cầu: Thí sinh có mặt tại phòng thi trước thời gian thi 30 phút để làm thủ tục vào phòng thi, 3. Môn thi, hình thức thi (Vòng 1): Thi trắc nghiệm được thực hiện bằng hình thức thi trên giấy. - Môn Kiến thức chung 60 câu hỏi, thời gian thi 60 phút. - Môn Ngoại ngữ (tiếng Anh) 30 câu hỏi, thời gian thi 30 phút. - Môn Tin học 30 câu hỏi, thời gian thi 30 phút. Những thí sinh đạt yêu cầu tại vòng 1 thì đủ điều kiện tiếp tục dự thi vòng 2, danh sách, lịch thi vòng 2 cụ thể sẽ thông báo sau. Xem chi tiết thông báo và danh sách thí sinh tại file đính kèm:
TANDTC thông báo chính thức về việc “Thủ tướng bác đề xuất bán 3 cơ sở “đất vàng”?
Ngày 4/9, Tòa án nhân dân (TAND) tối cao có thông báo chính thức 358/TANDTC-VP liên quan đến việc không bán 3 cơ sở “đất vàng” ở Hà Nội. Theo đó, TANDTC nhận được phản ánh đăng trên một số báo điện tử cụ thể: Báo Tiền phong đăng bài “Thủ tướng Chính phủ bác đề xuất bán 3 cơ sở đất vàng của TAND tối cao ở Hà Nội”; “Thủ tướng yêu cầu không bán trụ sở cũ TAND tối cao để lấy tiền xây trụ sở mới” của báo Tuổi trẻ... Lý giải về vấn đề này người phát ngôn, Chánh văn phòng TANDTC thông tin chính thức về nội dung này như sau: - Tại Công văn 369/TANDTC-KHTC ngày 16/12/2019 của Chánh án TAND tối cao gửi Thủ tướng Chính phủ đề nghị: “Việc bán đấu giá một số tài sản dôi dư nhất là cơ sở 262 Đội Cấn, quận Ba Đình, TP Hà Nội với giá thấp sẽ gây thất thoát lớn cho ngân sách Nhà nước, nên đề nghị bàn giao cho Chính phủ quản lý, sử dụng hoặc bố trí cho cơ quan nhà nước khác có nhu cầu”. Tại Báo cáo 126/TANDTC-KHTC ngày 26/5/2020 của TAND tối cao gửi Thủ tướng Chính phủ về “phương án xử lý các cơ sở nhà đất của TAND tối cao tại TP Hà Nội…”, TAND tối cao đề xuất với Thủ tướng Chính phủ bàn giao 3 cơ sở nhà đất tại 262 Đội Cấn, quận Ba Đình, số 2 Văn Phú, số 2A Nguyễn Trãi, quận Hà Đông, TP Hà Nội cho Chính phủ quản lý, sử dụng hoặc bố trí cho cơ quan nhà nước có nhu cầu. Tại Công văn 6338/VPCP-CN ngày 04/8/2020 của Văn phòng Chính phủ gửi TAND tối cao, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc như sau: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đồng ý với ý kiến của Bộ Tài chính tại Công văn 7598/BTC-QLCS ngày 23/6/2020 và đề nghị của TAND tối cao không bán các cơ sở nhà đất tại: số 262 Đội Cấn, quận Ba Đình, số 2 Văn Phú, số 2A Nguyễn Trãi, quận Hà Đông, TP Hà Nội… … TAND tối cao thực hiện sắp xếp lại các cơ sở nhà, đất và đề xuất phương án phù hợp theo quy định, gửi Bộ Tài chính; Bộ Tài chính thẩm định và phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý đối với 3 cơ sở nhà, đất này theo quy định tại Nghị định 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ quy định việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quy định của pháp luật”. Như vậy, việc không bán 3 cơ sở nhà đất nêu trên do TAND tối cao đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý; không phải là Thủ tướng “bác” đề xuất của TAND tối cao như một số bài báo đã nêu. Xem chi tiết thông báo tại file đính kèm:
Danh sách 14 dự thảo án lệ năm 2020
Ảnh minh họa: Dự thảo án lệ năm 2020 Ngày 17/7/2020, TAND tối cao phối hợp với Liên minh Châu âu và Chương trình phát triển Liên Hiệp quốc tại Việt Nam (UNDP) tổ chức Hội thảo lấy ý kiến đối với 14 dự thảo án lệ nhằm góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp. Xem chi tiết các dự thảo tại file đính kèm:
Đề nghị cán bộ, công chức, VC ngành tòa án xem phim “Lựa chọn số phận”
Ngày 15/6/2020 TANDTC ban hành Công văn 209/TANDTC-BCT về việc đón xem bộ phim truyền hình “Lựa chọn số phận” phát sóng trên Kênh VTV1. Hoạt động này nhắm hướng tới kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống TAND (13/9/1945 - 13/9/2020). Đây là một bộ phim chính luận, mang ý nghĩa chính trị - xã hội và nhân văn sâu sắc. Xuyên suốt kịch bản phim là hình tượng cao đẹp của người Thẩm phán có bản lĩnh chính trị, tận tâm, tận lực vượt qua khó khăn, cạm bẫy, kiên quyết chống tội phạm. Bộ phim khắc họa đậm nét hình ảnh của người Thẩm phán, một chức danh tư pháp được nhà nước và nhân dân giao phó với nghiệp vụ xét xử sắc bén, tinh thần thượng tôn pháp luật, góp phần quyết định để hệ thống TAND hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bộ phim sẽ được phát sóng vào lúc 21 giờ từ thứ hai đến thứ sáu hàng tuần trên kênh VTV1, bắt đầu từ ngày 17-6-2020 (Thứ 4). Theo đó, TANDTC đề nghị các đồng chí quán triệt, phổ biến mục đích, ý nghĩa, thời gian phát sóng bộ phim để tòa thể cán bộ, công chức, viên chức và NLĐ TAND, tòa án quân sự các cấp chú ý đón xem.
Chánh án TAND tối cao Nguyễn Hòa Bình trả lời 'Hồ Duy Hải có oan hay không'
Sau rất nhiều tranh luận của các đại biểu Quốc hội trong và ngoài ngành tòa án về vụ án Hồ Duy Hải suốt 2 ngày thảo luận vừa qua, đích thân Chánh án TAND tối cao Nguyễn Hòa Bình đã phải lên tiếng sáng 15.6. "Hồ Duy Hải có tội không, vụ án có oan sai hay không"? Theo đó, tại phiên Quốc hội về thảo luận kinh tế - xã hội sáng 15.6, Chánh án Nguyễn Hòa Bình, cũng là chủ tọa phiên giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải, đã tập trung trả lời câu hỏi: Hồ Duy Hải có tội không, vụ án có oan sai hay không? Theo Chánh án Nguyễn Hòa Bình, đây là vụ án xảy ra từ năm 2008, trải qua tố tụng nhiều cấp, đã được liên ngành tư pháp thẩm định và năm 2015, đoàn giám sát của Quốc hội về án oan sai cũng đã xem xét vụ này. Vụ án cũng đã qua các cấp xét xử là sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và đã đến Chủ tịch nước quyết định về việc ân giảm hình phạt. "Câu chuyện đặt ra là có oan sai hay không? Tôi sẽ tập trung trả lời Hồ Duy Hải có phạm tội hay không, có oan sai hay không. Đây là câu hỏi lớn mà đại biểu quan tâm, dư luận quan tâm", Chánh án nói. Theo tóm tắt vụ án của Chánh án Nguyễn Hòa Bình thì Hồ Duy Hải quen 2 cô gái ở Bưu điện Cầu Voi (H.Thủ Thừa, tỉnh Long An) và tối 13.1.2008 có đến đấy chơi. Lúc đó, nạn nhân Nguyễn Thị Thu Vân đang trực, còn nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng đang nghỉ, nên Hải vào nói chuyện với chị Hồng. Quá trình nói chuyện, nam nữ chưa vợ, chưa chồng, Hải có tán tỉnh, sờ soạng và có ý định quan hệ tình dục với chị Hồng, nên đã đưa tiền cho chị Vân ra ngoài mua trái cây. Ở nhà, Hải dẫn chị Hồng vào buồng ngủ, vật chị Hồng ra. Chị Hồng phản ứng, đạp vào bụng Hải, bỏ chạy và la làng lên. Hải sợ bị lộ, đuổi theo. Chị Hồng vấp ngã gần 1 cái thớt, nên Hải đã dùng thớt đập vào đầu cô gái, sau đó cắt cổ nạn nhân. Chị Vân đi mua trái cây về, thấy bạn bị giết, nên cũng bị Hải giết luôn theo cách tương tự là cắt cổ. Vậy, "chứng cứ để chứng minh Hải phạm tội là gì?", Chánh án Nguyễn Hòa Bình đặt câu hỏi và trả lời: Thứ nhất, là cơ quan điều tra đã cho Hải mô tả hiện trường, thì Hải mô tả chính xác những đồ vật có tại đó - việc mà nếu không có mặt tại hiện trường thì không thể mô tả được. "Có 2 điểm lưu ý. Đầu tiên là những đồ vật trong phòng ngủ của cô Hồng, Hải đã khai đúng. Bưu điện là nơi công cộng, bên ngoài ai cũng có thể biết, nhưng trong phòng ngủ mà không có mặt ở hiện trường thì không thể biết", theo Chánh án. "Tiếp đó là vị trí những đồ vật rời, ví dụ con gấu, tờ báo, cốc nước, túi trái cây… có thể hôm nay để chỗ này, ngày mai để chỗ khác. Nhưng tất cả các đồ vật rời ấy, Hải đã mô tả đúng vị trí khi xảy ra vụ án", Chánh án nói rõ thêm. Chứng cứ thứ 2 là về diễn biến hành vi. Hải khai, quá trình sờ soạng chị Hồng không nói gì, nhưng khi bị đè ra thì chị Hồng phản ứng, đạp vào bụng Hải. Theo hiện trường để lại, áo ngực của chị Hồng bị xộc xệch, nằm ở phần trên ngực. Theo Chánh án, "phản ứng bình thường của người phụ nữ khi ngồi dậy là phải sửa cái này, nhưng do tức thời (bỏ chạy), nên cô gái không kịp sửa". Phù hợp thứ hai, theo Chánh án, là vết thương trên đỉnh đầu chị Hồng được pháp y khẳng định là "do tác động của vật cứng mặt phẳng", phù hợp với lời khai của Hải rằng hung khí gây án là thớt và bản ảnh hiện trường có cái thớt dính máu nằm bên cạnh đầu của chị Hồng. Phù hợp thứ 3 là giám định pháp y kết luận trong âm đạo của cô Hồng có dịch, và cơ chế hình thành dịch, theo bác sĩ pháp y, là quá trình kích dục, có sự đụng chạm vào vùng nhạy cảm của cơ thể. Chánh án nói gì về con dao, cái thớt "mua ở chợ"? Về tài sản cướp được, theo Chánh án Nguyễn Hòa Bình, Hải khai là sau khi giết 2 cô gái, có lấy của bưu điện một số tiền và một số simcard, lấy của 2 nạn nhân một số nữ trang, dây chuyền, vòng tay, nhẫn. Ở thời điểm khám nghiệm hiện trường, cơ quan điều tra không thể biết được Hải lấy cái gì vì không biết các cô gái có gì, nhưng Khi bắt được Hải, thì Hải khai ra lấy của cô này cái gì, lấy của cô kia cái gì. Cơ quan điều tra đã hỏi người thân, gia đình, cha mẹ các cô gái, thì người ta mô tả đúng đồ vật 2 cô gái này có. Bưu điện cũng nói rõ bị mất bao nhiêu tiền và bao nhiêu simcard. "Có một chi tiết rất đáng lưu ý, rất có giá trị chứng minh, là Hải khai lấy của cô Hồng 1 dây chuyền có mặt dây, của cô Vân không có mặt. Kết quả khám nghiệm hiện trường thì mặt dây chuyền của cô Vân có ở hiện trường, nằm trong ngực áo của cô Vân", Chánh án nêu thêm. Cũng theo Chánh án, cơ quan điều tra đã yêu cầu Hải khai tiêu thụ số tài sản này ở đâu, Hải đã vẽ chính xác địa chỉ nơi bán vàng, nơi bán điện thoại và có những chi tiết phù hợp rất ngẫu nhiên, như Hải khai lúc đến bán, ở quầy này có người phụ nữ lớn tuổi hơn bán, ở quầy này có người nhỏ tuổi hơn bán. Đặc biệt, về giá cả, cơ quan điều tra đã đi xác minh, người ta không thể nhớ được mua của ai, nhưng người ta nhớ giá ở thời điểm này, cái điện thoại này có giá 200.000 đồng, phù hợp với lời khai của Hải. Người ta khai phương thức thanh toán và giá cả của đồ trang sức mua phù hợp với phương thức thanh toán mà Hải đã khai. "Trong quá trình đi bán vàng, do sợ bị theo dõi, nên Hải không nhìn vào người mua vàng, mà đi ra ngoài đường xem có ai theo dõi không, theo lời khai của Hải. Người mua vàng khai, thông thường người ta tính số tiền trên máy tính, chìa ra cho khách xem, nếu đồng ý thì mua bán, nhưng do Hải không nhìn vào máy tính nên họ phải viết ra giấy. Hải khai có tờ giấy đó và khi ra khỏi cửa hàng thì Hải đã vứt đi", ông Bình cho biết. Giải thích thêm về hung khí, việc "mua dao, mua thớt ở chợ để làm chứng cứ", Chánh án cho biết: "Ở thời điểm khám nghiệm hiện trường, cơ quan điều tra không thể biết cái thớt là hung khí. Chỉ khi bắt được Hải, Hải khai ra việc dùng thớt đập vào đầu nạn nhân, thì người ta mới biết. Khi đó, thớt đã bị dọn đi". "Về con dao, Hải khai ở bên tường bưu điện có cái bảng và dắt dao vào bảng đó. Không ai tìm thấy dao cả, chỉ có Hải mới biết vị trí cái dao. Sau khi khám nghiệm hiện trường, có 3 anh dân phòng vào dọn phòng đó, phun nước, dỡ bảng ra thì có dao rơi xuống, nhưng người ta sơ xuất vứt dao đi. Cơ quan điều tra đi tìm dao đó không được, nên cho 3 anh dân phòng mô tả, đi mua dao về". "Dư luận nói rằng mua dao ngoài chợ về để thay hung khí, nhưng trong hồ sơ vụ án, không có cái nào mua dao là thay hung khí cả. Mua dao, thớt, vật tương tự về để Hải và những người liên quan nhận diện xem có đúng là được sử dụng làm hung khí hay không. Khi để một loạt dao, Hải nhận diện đúng con dao dùng để gây án, dù khi khai thì lời khai không thống nhất", Chánh án cho biết thêm. Do thời gian có hạn, Chánh án Nguyễn Hòa Bình cho biết còn rất nhiều chứng cứ khác mà nếu đại biểu quan tâm, TAND tối cao sẵn sàng phục vụ trao đổi, thông tin. Chánh án cũng nói thêm việc Hồ Duy Hải có 25 lời khai nhận tội, mà lời khai nhận tội đầu tiên là do Hải tự viết ra, chứ không phải là bản hỏi. Ở những thời điểm quan trọng của vụ án, Hải đều nhận tội, như khi nhận kết luận điều tra, cáo trạng. Sau sơ thẩm, phúc thẩm, khi gửi đơn cho Chủ tịch nước, Hải đều không kêu oan, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt. Người kêu oan nhiều nhất là mẹ của Hải. Sau khi Chánh án giải trình, đại biểu Trương Văn Nọ (đại biểu Quốc hội tỉnh Long An) cũng lên tiếng về vụ án. Theo đại biểu, sau phiên giám đốc thẩm, đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An chưa nhận được phản ánh, ý kiến nào của nhân dân, cử tri gửi đến đoàn đại biểu Quốc hội. Mặt trận Tổ quốc tỉnh Long An cũng đã tổ chức tiếp xúc cử tri trên 15 huyện, thị, thành phố toàn tỉnh Long An. Đến thời điểm này, không có một ý kiến nào của bà con cử tri liên quan đến vụ án này. "Tôi xin báo cáo thêm để đại biểu Quốc hội nắm tình hình ý kiến của bà con cử tri trên địa bàn tỉnh Long An", đại biểu Nọ cho biết (Lê Hiệp ghi) Theo Thanh niên
Tổng hợp các văn bản giải đáp vướng mắc của Tòa án nhân dân tối cao
Để phục vụ học tập, nghiên cứu dưới đây mình có tổng hợp một số nội dung gồm các công văn hướng dẫn nghiệp vụ của TANDTC. - Công văn 64/TANDTC-PC ngày 03/04/2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính - Công văn 212/TANDTC-PC ngày 13/09/2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến vướng mắc trong xét xử - Công văn 79/TANDTC-PC năm 2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến 64/TANDTC-PC - Công văn 59/TANDTC-PC năm 2019 hướng dẫn bổ sung về nghiệp vụ triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính - Công văn 232/TANDTC-PC năm 2018 về quán triệt thực hiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự - Công văn 160/TANDTC-PC năm 2018 một số biểu mẫu về tha tù trước thời hạn có điều kiện - Công văn 01/GĐ-TANDTC năm 2018 về giải đáp vấn đề nghiệp vụ - Văn bản 01/2017/GĐ-TANDTC giải đáp vấn đề nghiệp vụ - Văn bản 02/GĐ-TANDTC năm 2018 giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính - Văn bản 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/04/2017 giải đáp vấn đề nghiệp vụ - Văn bản 01/GĐ-TANDTC năm 2016 giải đáp vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự - Văn bản 02/GĐ-TANDTC năm 2016 giải đáp vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự do
05 giải đáp vướng mắc của Tòa tối cao về các tranh chấp khi ly hôn
Dưới đây là nội dung tổng hợp các giải đáp vướng mắc pháp lý liên quan đến các tranh chấp khi ly hôn (con cái, tài sản,...) của tòa án tối cao. 1. Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà nguyên đơn và bị đơn đều cư trú ở hai nơi khác nhau, tài sản là bất động sản lại ở nơi khác thì Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết? Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà có tranh chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án được xác định theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; cụ thể là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn thì Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn có thẩm quyền giải quyết. 2. Trong vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến con chưa thành niên mà đương sự thuận tình ly hôn và thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Tòa án có phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án không? Khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án”. Quy định này thể hiện tính chất đặc thù của vụ án hôn nhân và gia đình, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con. Do vậy, đối với vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến người chưa thành niên, việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân phát sinh tranh chấp là bắt buộc. 3. Theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên... Như vậy, có được hiểu rằng chỉ những vụ án có tranh chấp về nuôi con mới lấy ý kiến của con? Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: "...con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Vậy áp dụng quy định nào mới đúng? - Đoạn thứ 2 khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên và các thủ tục tố tụng khác đối với người chưa thành niên phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người chưa thành niên, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên”. - Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về thuận tình ly hôn quy định: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đảng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”. - Khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Theo các quy định nêu trên, để bảo đảm quyền lợi của người con, Tòa án phải lấy ý kiến của người con, xem xét nguyện vọng của người con từ đủ 07 tuổi trở lên; phương pháp lấy ý kiến phải bảo đảm thân thiện với trẻ em. Tuy nhiên, Tòa án phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của người con để quyết định giao cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng. 4. Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành, theo quy định khoản 5 Điều 397 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, xóa sổ thụ lý giải quyết việc dân sự và thụ lý vụ án ly hôn, chia tài sản chung vợ chồng thì tiền tạm ứng án phí và lệ phí giải quyết việc dân sự đã nộp được giải quyết như thế nào? Khoản 5 Điều 397 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án không phải thông báo về việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án được thực hiện theo thủ tục chung do Bộ luật này quy định”. Khoản 5 Điều 25 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định: “Trường hợp đình chỉ việc dân sự và thụ lý vụ án để giải quyết theo quy định tại khoản 5 Điều 397 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án phải yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng án phí dân sự giải quyết vụ án theo thủ tục chung”. Căn cứ vào các quy định nêu trên, khi giải quyết vụ án, Tòa án phải xác định tư cách tố tụng của các đương sự, theo đó, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trường hợp đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí thì được khấu trừ số tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đã nộp; nếu chưa đủ thì phải nộp phần còn thiếu; trường hợp đương sự không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì số tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đã nộp sẽ được giải quyết khi Tòa án quyết định án phí. 5. Trường hợp vụ án tranh chấp chia tài sản là bất động sản sau khi ly hôn mà nơi cư trú của bị đơn và nơi có bất động sản tranh chấp khác nhau thì Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết? Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”. Trường hợp này, quan hệ hôn nhân chấm dứt do vợ chồng đã ly hôn, nhưng tranh chấp tài sản sau ly hôn vẫn là tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên căn cứ các quy định nêu trên thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết. Căn cứ: Văn bản 01/2017/GĐ-TANDTC giải đáp vấn đề nghiệp vụ do Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến vướng mắc trong xét xử do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
TAND cấp cao tuyển dụng công chức
Mới: Thêm 09 đơn vị phải dừng cấp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học Các trường hợp Cơ quan nhà nước được phép từ chối tiếp công dân Ngày 4/10/2019 TANCTC ban hành Thông báo 786/TB-TANDTC về việc tuyển dụng công chức làm việc tại TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019. Cụ thể như sau:
Điểm mới về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Những điểm mới về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 so với Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002. Theo quy định tại các Điều 22, 23 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 và các Điều 21, 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 có những điểm mới sau: - Về số thành viên của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Theo quy định tại Khoản 1, Điều 22 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014 số lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới 13 người và không quá 17 người. Trong khi đó, theo Khoản 3, Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 chỉ quy định tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không quá 17 người. - Về thành phần của Hội đồng: Khác với quy định Khoản 2, Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 thành phần Hội đồng bao gồm: Chánh án, các Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; một số Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì tại Khoản 1, Điều 22 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014 quy định thành phần Hội đồng Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bao gồm Chánh án, các Phó Chánh án Tòa nhân dân tối cao là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. - Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng: So với Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định mở rộng phạm vi quyền hạn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử. Hội đồng có quyền thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của Tòa án nhân dân để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; tham gia ý kiến đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết để trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao còn có quyền được thảo luận, cho ý kiến đối với dự thảo văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và dự thảo văn bản pháp luật giữa Tòa án nhân dân tối cao với cơ quan có liên quan theo quy định của Luật ban hành văn bản pháp luật. - Về hiệu lực pháp luật của quyết định do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đưa ra: Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 khẳng định quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất. Theo đó, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị (Khoản 4 Điều 22). - Về việc tổ chức xét xử của Hội đồng: Theo quy định của Khoản 1, Điều 23 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán hoặc toàn thể Thẩm phánTòa án nhân dân tối cao. Trong khi đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 không có quy định cụ thể vấn đề này.