Người dân nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác thì cần làm những gì và có được báo Công an hay không? Đây là vấn đề người dân thắc mắc và gửi câu hỏi đến Cổng thông tin điện tử Bộ Công an cần giải đáp.
Theo đó Bộ Công an có câu trả lời như sau:
- Các yếu tố cấu thành tội phạm mua bán người:
Theo khoản 1 Điều 150 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 quy định về tội mua bán người như sau:
“Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.”
Như vậy, có thể hiểu các yếu tố cấu thành tội phạm mua bán người, gồm:
Về mặt khách quan:
+ Các dấu hiệu về hành vi bao gồm: Hành vi chuyển giao và tiếp nhận người; các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi chuyển giao và tiếp nhận người.
+ Về thủ đoạn: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hay bằng các thủ đoạn khác như lợi dụng quyền lực, lợi dụng tình trạng quẫn bách của nạn nhân, ép nạn nhân sử dụng bia, rượu hoặc chất kích thích.... Hoặc bất kỳ thủ đoạn nào khác để thực hiện hành vi chuyển giao tiếp nhận người.
+ Người bị hại phải đủ từ 16 tuổi trở lên. Trong trường hợp bị hại dưới 16 tuổi thì cấu thành tội “Mua bán người dưới 16 tuổi” theo Điều 151 Bộ luật Hình sự và không nhất thiết phải chứng minh thủ đoạn.
Về mặt chủ quan:
+ Người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý, biết được hành vi mua bán người là vi phạm pháp luật nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra.
+ Mục đích phạm tội: (1) để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; (2) để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động; (3) để lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác như ép buộc đi ăn xin, ép buộc thực hiện các hành vi phạm tội, làm vật thí nghiệm, ép buộc tham gia chiến tranh...
Mặt khách thể: Hành vi mua bán người xâm phạm đến quyền được bảo vệ về thân thể, tính mạng, sức khỏe và danh dự của con người (nạn nhân).
Mặt chủ thể: Bất kỳ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (từ 14 tuổi trở lên đủ năng lực trách nhiệm về hành vi, nhận thức).
- Nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác thì có được báo Công an để ngăn chặn hay không?
Bộ Công an trả lời như sau: Pháp luật Việt Nam luôn khuyến khích động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân được tham gia tích cực vào công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm mua bán người nói riêng.
Trường hợp của người dân có ý kiến lên cổng TTĐT Bộ Công an, việc người dân phát hiện một phụ nữ gần nhà anh thường xuyên bị một người ở địa phương khác đến rủ đi lao động ở nước ngoài và anh nghi ngờ người đó đang có hành vi dụ dỗ người hàng xóm đi lao động nước ngoài để bán, anh hoàn toàn có quyền được đến cơ quan Công an hoặc các cơ quan công quyền khác của Nhà nước như Ủy ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân,... để trình báo, cung cấp thông tin về những nghi ngờ của mình để các cơ quan này tiến hành các hoạt động điều tra xác minh và làm rõ có hay không có hành vi phạm tội mua bán người hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác để kịp thời xử lý.
Mặt khác, nếu có thể anh nên gặp gỡ trực tiếp chị hàng xóm nghi là nạn nhân hoặc người thân của chị để nói lên những băn khoăn nghi ngờ của mình để người hàng xóm cảnh giác, tìm hiểu kỹ trước khi quyết định đi lao động nước ngoài, không để trở thành nạn nhân của mua bán người.
- Theo đó, nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác mà không báo Công an để ngăn chặn thì có bị coi là hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm không?
Bộ Công an trả lời như sau: Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tại:
Căn cứ tại Điều 18 quy định về Che giấu tội phạm, như sau:
Người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định.
Đồng thời, tại Điều 19 cũng quy định về Không tố giác tội phạm
Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Không tố giác tội phạm quy định tại Điều 390 của Bộ luật này.
Trường hợp của người dân mới chỉ là nghi ngờ về việc một người có hành vi dụ dỗ người phụ nữ hàng xóm đi lao động nước ngoài để bán, bản thân anh cũng không thể biết chính xác hành vi của người đến rủ chị hàng xóm đi lao động nước ngoài có đúng là để lừa bán hay không nên việc anh không đi trình báo Công an để ngăn chặn không bị coi là hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm.
Tuy nhiên, khi phát hiện hành vi dụ dỗ, tuyển mộ người đi lao động nước ngoài nghi ngờ là để bán, anh nên đến cơ quan Công an hoặc các cơ quan chức năng khác để trình báo, cung cấp thông tin về những nghi vấn của mình như đã nêu ở phần trên để các cơ quan này tiến hành điều tra xác minh xử lý.
Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an