Còn nhớ, khi thi công Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn hay Thủy điện Sông Đà chúng ta phải thuê hàng nghìn chuyên gia nước ngoài sang hướng dẫn cả về quản lý, thực hành và công nghệ, thì hiện nay, trên mọi lĩnh vực thi công phức tạp như công trình giao thông, thủy lợi… đều do người Việt đảm nhận và làm chủ công nghệ. Nhà thầu Việt đã thi công các công trình nhà cao tầng từ lúc 25 tầng cho đến 40, 70 tầng rồi trên 100 tầng… Tuy vậy, các nhà thầu Việt hiện vẫn bị đánh giá là… những “chuyên gia làm thuê” trên sân nhà.
“Chuyên gia” làm thuê
Ông Phạm Văn Lộc, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH Khu công nghiệp Thăng Long trăn trở: "Tôi có thắc mắc, các nhà thầu Việt Nam khi thực hiện dự án dưới sự điều hành giám sát của nhà thầu nước ngoài thường làm rất tốt và đạt được yêu cầu của chủ đầu tư, nhưng vẫn những con người đó, khi trực tiếp làm lại không đáp ứng được yêu cầu. Như vậy vấn đề ở chỗ nào?"
Thiếu tính chuyên nghiệp là "lỗi lớn" của nhà thầu trong nước. Khi lập hồ sơ chào thầu, các nhà thầu Việt Nam thường không tính toán kỹ, chi tiết các yếu tố trong suốt quá trình dự án. Vì vậy, trong quá trình thực hiện dễ phát sinh các yếu tố làm tăng giá thành và thời gian. Một vấn đề nữa là công tác bảo hành sau khi dự án hoàn thành, nhà thầu Việt thường không làm tốt, không có bộ phận bảo hành chuyên nghiệp cho dự án. Khi chủ đầu tư yêu cầu thường triển khai rất chậm và hiệu quả kém làm mất niềm tin. Vấn đề bảo hành, nhà thầu nước ngoài thường thực hiện rất tốt.
Chính vì vậy, giáo sư tiến sĩ Nguyễn Trường Tiến, Phó Chủ tịch Hiệp hội nhà thầu Việt Nam (VACC) cho rằng, nguyên nhân gốc rễ là chất lượng đào tạo kỹ sư và kiến trúc sư ngày càng bị giảm sút. Chưa có một xã hội học tập, người kỹ sư, kiến trúc sư không phải học tập liên tục sau ra trường. Trong việc thực hiện một dự án có vai trò của nhà quản lý, chủ đầu tư, tư vấn, thi công, cung ứng vật tư, thiết bị, giám sát, huấn luyện và chạy thử. Các thành phần trên của doanh nghiệp trong nước chưa được chuyên nghiệp.
Hơn nữa, cũng theo ông Tiến, hiện chúng ta đang thiếu phương pháp và tác phong làm việc khoa học có trách nhiệm của nhà thầu. Làm sao để chủ đầu tư thực sự yên tâm khi nhận sản phẩm của nhà thầu Việt làm ra.
Vì thiếu tiền đề “đầu tiên”
Theo số liệu của VACC, phần lớn các nhà thầu Việt hạn chế về mặt tài chính. Các nhà thầu tư nhân thường vốn nhỏ từ nguồn vốn góp cổ phần, các nhà thầu lớn có nguồn vốn lớn nhưng do Nhà nước nắm giữ phần chi phối. Chính vì vậy, việc sử dụng nguồn vốn này cần phải được sự phê chuẩn của rất nhiều bước nên mất nhiều thời gian. Hiện một số chính sách thuế, chính sách tín dụng của Việt Nam chưa ưu đãi đối với chủ đầu tư và nhà thầu trong nước, trong khi một số nhà thầu nước ngoài được hưởng ưu đãi về xúc tiến đầu tư, chính sách thuế, chính sách tín dụng, tỷ giá ngoại tệ… đã tạo nên sự không bình đẳng trong tham gia đấu thầu.
Ông Vũ Quý Hà, Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Vinaconex bày tỏ, ngoài vấn đề về qui trình quản lý, cách thức tổ chức, nguồn nhân lực, các nhà thầu Việt Nam còn vướng nhất ở phần nguồn vốn. Nhận tổng thầu EPC cần nguồn vốn lớn, nhất là ngoại tệ, nhưng nhà thầu Việt Nam ít được các ngân hàng đáp ứng đủ. Mặt khác, lãi suất tăng cao khiến cho các nhà thầu hiện nay rất ngần ngại do các dự án EPC thu hồi vốn chậm.
Theo ông Hà, chỉ ở một số lĩnh vực, các nhà thầu trong nước được coi là có thể cạnh tranh được, ví dụ như làm thủy điện có Tập đoàn Sông Đà, xây dựng nhà cao tầng có Vinaconex, thi công xây dựng cầu đường có Tổng công ty cầu Thăng Long... Nhưng số lượng nhà thầu Việt Nam được làm tổng thầu EPC quả còn rất hạn chế.
Ông Phạm Văn Lộc cũng chia sẻ, phần lớn các nhà thầu Việt Nam có quy mô tài chính hạn chế. Khi triển khai dự án, các doanh nghiệp thường phải đi vay với lãi suất rất cao, và chịu sự ràng buộc từ nhiều phía như ngân hàng, cơ quan chủ quản, cơ quan bảo lãnh... Vì vậy, các nhà thầu Việt Nam không tự tin khi tham gia đấu thầu các dự án lớn.
Ở trường hợp khác, nhà thầu năng lực tài chính yếu nhưng vì mục tiêu tạo công văn việc làm cho lao động, phải có hợp đồng nên đã bỏ giá thấp để trúng thầu. Khi dự án thực hiện, sẽ không thành công và lại mất uy tín.
Và bị đối xử bất công?
Năng lực cạnh tranh của từng nhà thầu không chỉ phụ thuộc vào thể trạng của chính họ mà còn phụ thuộc vào môi trường thể chế |
Không hẳn đồng tình với quan điểm của cơ quan quản lý, TS Phạm Sỹ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam cho rằng, năng lực cạnh tranh của từng nhà thầu không chỉ phụ thuộc vào thể trạng của chính họ mà còn phụ thuộc vào môi trường thể chế. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường xây dựng, đặt trọng tâm vào phát triển các yếu tố sản xuất; tài trợ thành lập các tập đoàn tư vấn, thiết kế lớn có cơ sở nghiên cứu, thí nghiệm chuyên ngành; hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động giám sát xây dựng… Đồng thời, cần kiểm tra và xử lý nghiêm khắc các vi phạm quy định về việc hạn chế đưa lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam. Bên cạnh đó, cần sớm ban hành Luật Đầu tư công, trong đó đặc biệt ngăn ngừa tình trạng thanh toán dây dưa, gây thiệt hại cho nhà thầu. Có như vậy nhà thầu Việt mới thật sự là đối trọng của các nhà thầu nước ngoài.
Đồng tình với quan điểm này, ông Vũ Quý Hà, Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Vinaconex bổ sung thêm, các nhà thầu cũng cần đẩy mạnh việc liên kết, nhất là trong vấn đề vốn để có thể đủ năng lực nhận thầu EPC các dự án quy mô vừa đến lớn. Đặc biệt, với tư cách một doanh nhân, ông Hà cũng cho rằng, với lĩnh vực đầu cư công, các chủ đầu tư nên có tầm nhìn rộng hơn đối với lợi ích khi giao thầu EPC cho nhà thầu trong nước. Vì các đơn vị này không phải chỉ nhận việc kiếm doanh thu mà còn tạo ra nhiều việc làm cho lao động và kỹ sư trong nước. Đó cũng là động lực thúc đẩy ngành vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, thị trường khoa học công nghệ phát triển.
Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, năm 2010 có 453 gói thầu với tổng giá trị gói thầu là 77.683 tỷ đồng áp dụng hình thức đấu thầu quốc tế. 13.939 gói thầu với tổng giá trị gói thầu là 200.724,29 tỷ đồng áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi. Trong giai đoạn 5 năm qua, đối với các gói thầu EPC sử dụng vốn nhà nước, nhà thầu Trung Quốc chiếm 24% về số lượng và 48% về giá trị trúng thấu. Kế đến là nhà thầu Nhật Bản chiếm 6% về số lượng gói thầu EPC và 11% giá trị trúng thầu. Việt Nam chiếm 67% số gói thầu EPC sử dụng vốn nhà nước nhưng giá trị của số gói thấu này chỉ chiếm 39%. |
Nguồn: Báo Điện tử Diễn đàn doanh nghiệp