Hiện nay thì việc giao dịch dân sự trong hoạt động mua bán rất phổ biến vậy để bảo vệ được những quyền lợi tối thiểu của người tiêu dùng thì việc giao kết hợp đồng với người tiêu dùng sẽ được pháp luật quy định như thế nào?
Hợp đồng giao kết với người tiêu dùng sẽ như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 14 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 như sau:
- Hình thức hợp đồng giao kết với người tiêu dùng được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.
- Trường hợp giao kết hợp đồng với người tiêu dùng bằng văn bản thì ngôn ngữ của hợp đồng phải được thể hiện rõ ràng, dễ hiểu.
Ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng giao kết với người tiêu dùng là tiếng Việt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
- Trường hợp giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải tạo điều kiện để người tiêu dùng xem xét toàn bộ hợp đồng trước khi giao kết.
- Chính phủ quy định chi tiết các hình thức giao kết hợp đồng khác với người tiêu dùng.
Như vậy có thể thấy rằng hợp đồng giao kết với người tiêu dùng sẽ phải đảm bảo các nội dung nêu trên.
Hợp đồng giao kết với người tiêu dùng sẽ được giải thích ra sao?
Căn cứ theo quy định tại Điều 15 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 như sau: Trong trường hợp hiểu khác nhau về nội dung hợp đồng thì tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giải thích theo hướng có lợi cho người tiêu dùng.
Như vậy, trong trường hợp hiểu khác nhau về nội dung hợp đồng thì tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giải thích theo hướng có lợi cho người tiêu dùng.
Những điều khoản của hợp đồng giao kết với người tiêu dùng sẽ không có hiệu lực trong trường hợp nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 16 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 như sau:
- Điều khoản của hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực trong các trường hợp sau đây:
+ Loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng theo quy định của pháp luật;
+ Hạn chế, loại trừ quyền khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng;
+ Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương thay đổi điều kiện của hợp đồng đã thỏa thuận trước với người tiêu dùng hoặc quy tắc, quy định bán hàng, cung ứng dịch vụ áp dụng đối với người tiêu dùng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không được thể hiện cụ thể trong hợp đồng;
+ Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương xác định người tiêu dùng không thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ;
+ Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quy định hoặc thay đổi giá tại thời điểm giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
+ Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ giải thích hợp đồng trong trường hợp điều khoản của hợp đồng được hiểu khác nhau;
+ Loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thông qua bên thứ ba;
+ Bắt buộc người tiêu dùng phải tuân thủ các nghĩa vụ ngay cả khi tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không hoàn thành nghĩa vụ của mình;
+ Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho bên thứ ba mà không được người tiêu dùng đồng ý.
Như vậy, trong hợp đồng giao kết với người tiêu dùng có những điều khoản nêu trên thì hợp đồng có thể sẽ không có hiệu lực nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Từ những quy định nêu trên, hiện nay Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy định cũng như chế tài nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng để đảm bảo hoạt động mua bán trên thị trường ngày càng phát triển.