Giáo viên trường công lập là một trong những ngành nghề quan trọng và có vai trò to lớn trong sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, việc giáo viên tham gia vào các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là góp vốn vào doanh nghiệp, là một vấn đề gây tranh cãi.
Vậy giáo viên trường công lập có được quyền góp vốn vào doanh nghiệp không? Bài viết sẽ cung cấp thông tin chi tiết về vấn đề này.
Giáo viên là những người có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội thông qua việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ.
Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của kinh tế và nhu cầu tìm kiếm thu nhập bổ sung, nhiều giáo viên quan tâm đến việc góp vốn vào doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, giáo viên trường công lập thuộc nhóm cán bộ, công chức, viên chức. Do đó, các hoạt động của họ bị ràng buộc bởi các quy định về cán bộ, công chức, viên chức.
Việc tham gia vào hoạt động kinh doanh, đặc biệt là góp vốn vào doanh nghiệp, phải tuân theo các quy định pháp luật liên quan.
(1) Giáo viên trường công lập có được quyền góp vốn vào doanh nghiệp không?
Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật theo quy định tại Điều 2 Luật Viên chức năm 2010.
Giáo viên tại những trường học công lập được xem là viên chức theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đối với quyền góp vốn vào doanh nghiệp, theo khoản 3 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định tổ chức, cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp sau đây:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình.
- Đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng.
Bên cạnh đó, quyền của viên chức về hoạt động kinh doanh và làm việc ngoài thời gian quy định được quy định cụ thể tại Điều 14 Luật Viên chức năm 2010 như sau:
- Được hoạt động nghề nghiệp ngoài thời gian làm việc quy định trong hợp đồng làm việc, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Được ký hợp đồng vụ, việc với cơ quan, tổ chức, đơn vị khác mà pháp luật không cấm nhưng phải hoàn thành nhiệm vụ được giao và có sự đồng ý của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập.
- Được góp vốn nhưng không tham gia quản lý, điều hành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác.
Như vậy, giáo viên tại các trường công lập được phép tham gia góp vốn nhưng không được tham gia vào quản lý và điều hành doanh nghiệp.
(2) Giáo viên thành lập doanh nghiệp bị xử lý thế nào?
Căn cứ theo khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình.
- Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức.
- Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước.
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật Doanh Nghiệp năm 2020, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác…..
Như vậy, giáo viên không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp. Nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, cụ thể như sau:
Căn cứ theo khoản 2 Điều 75 Luật Doanh Nghiệp năm 2020 thì trường hợp doanh nghiệp đã đăng ký có cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2020 như sau:
Đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân là chủ sở hữu: Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đã đăng ký ra thông báo về hành vi vi phạm đồng thời ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Sau khi nhận được quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp thực hiện thủ tục giải thể theo quy định tại Điều 209 Luật Doanh nghiệp, trừ trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để thực hiện biện pháp cưỡng chế theo đề nghị của Cơ quan quản lý thuế.
Như vậy, trong trường hợp giáo viên trường công thành lập công ty để quản lý là vi phạm quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Do đó, Phòng Đăng ký kinh doanh sẽ ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Tóm lại, theo pháp luật hiện hành, giáo viên trường công lập không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp nhưng lại được phép góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh.