Trước đây theo quy định tại Điều 2 Nghị định 56-CP quy chế cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê Nhà tại Việt Nam có quy định cấm cơ quan nhà nước cho người nước ngoài thuê nhà thuộc sở hữu của nhà nước mà mình đang được phép quản lý hoặc sử dụng.
Tuy nhiên hiện nay đã không còn quy định cấm cơ quan nhà nước cho người nước ngoài thuê nhà này. Nhưng người nước ngoài muốn thuê nhà của cơ quan nhà nước cần đáp ứng các điều kiện của Luật nhà ở 2014, cụ thể:
Thứ nhất, phải có đủ năng lực hành vi dân sự để thực hiện giao dịch về nhà ở theo quy định của pháp luật Việt Nam,
Thứ hai, phải thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định tại Điều 159 Luât nhà ở 2014 và không bắt buộc phải có đăng ký tạm trú hoặc đăng ký thường trú tại nơi có nhà ở được giao dịch. Đối tượng người nước ngoài được sở hữu nhà ở bao gồm:
"Điều 159. Đối tượng được sở hữu nhà ở và hình thức sở hữu nhà ở tại Việt Nam của tổ chức, cá nhân nước ngoài
1. Đối tượng tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao gồm:
a) Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt Nam theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan;
b) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam (sau đây gọi chung là tổ chức nước ngoài);
c) Cá nhân nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam."
Ngoài ra, khi cho người nước ngoài thuê nhà cơ quan nhà nước có nhà thuộc sở hữu của nhà nước mà mình đang được phép quản lý hoặc sử dụng phải tuân thủ theo các quy định tại Luật quản lý, sử dụng tài sản công.