"Việc để lại di chúc đã có từ cách đây hàng ngàn năm. Thời đó, di chúc thường dành cho giới quyền cao, chức trọng với nội dung chủ yếu nhằm tránh cho con cháu những tranh chấp về quyền hành có thể đi đến chỗ đổ máu. Mãi sau này mới xuất hiện di chúc về việc phân chia tài sản và chỉ định người thụ hưởng. Mỗi di chúc có một nét đặc biệt, và đôi khi rất ngộ nghĩnh.
Bản di chúc của triết gia Hy Lạp Aristote được viết vào năm 322 trước Công nguyên. Ông không trực tiếp gửi những lời di huấn cho người thân mà lại nhờ bạn bè thực hiện di ngôn của mình. Ông chỉ định một người làm giám hộ cho con gái mình; ông cũng ước muốn bạn bè trả tự do cho các nàng nô lệ của ông. Ngoài ra ông còn cẩn thận dặn dò từng chi tiết về lễ tống táng cho ông.
Vào thời chiến tranh cách mạng Hoa Kỳ, thống đốc Morris viết di chúc để lại phân nửa số tài sản khổng lồ cho bà vợ. Ông còn tỏ ra “ga lăng” một cách… ngược đời khi thêm vào một điều khoản là nếu bà vợ đi thêm bước nữa, bà sẽ được hưởng nốt nửa gia tài còn lại. Nhưng khi ông ta mất đi, ông tòa Patrick Henry, một người nổi tiếng là trực tính đã không chịu thi hành đúng di ngôn này. Herry phán quyết rằng, bà vợ ông Morris chỉ được hường gia tài của ông chồng nếu bà chịu ở góa còn nếu lấy chồng khác bà sẽ không được hưởng gì cả. Ông giải thích với bạn bè: “Tôi không thể chấp nhận chuyện một người phải nai lưng làm việc suốt đời để rồi bao nhiêu tài sản lại lọt hết vào tay vợ cùng một người đàn ông khác”.