Bản án về xin ly hôn, nuôi con số 121/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 121/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2021 VỀ XIN LY HÔN, NUÔI CON

Hôm nay, ngày 18 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 259/2021/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 119/QĐXXST- HNGĐ, ngày 01 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị D, sinh năm 1994 nơi đăng ký thường trú số 101B/7, ấp An Th, xã An B, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long. (Xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Trần Trung Tr, sinh năm 1993, nơi đăng ký thường trú Số 101B/7, ấp An Th, xã An B, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long. (Xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/7/2021 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Đỗ Thị D trình bày:

Năm 2013 chị D và anh Tr quen biết nhau được gia đình chấp nhận, có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương. Anh chị có đăng ký kết hôn tại UBND xã An B, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long được cấp giấy chứng nhận ngày 29/8/2013.

Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Ngọc Diễm M, sinh ngày 27/7/2013 hiện cháu M đang do anh Tr nuôi dưỡng.

Thời gian sau ngày cưới vợ chồng sống hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do bất đồng quan điểm sống từ năm 2015, mâu thuẫn trong tình cảm nên anh chị hay cự cải nhau, anh Tr không lo làm ăn, anh Tr còn có hành vi bạo lực với chị D, anh chị sống chung không hạnh phúc, chị D đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, anh chị đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2021 đến nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, sống chung không hạnh phúc do đó chị yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị D yêu cầu ly hôn với anh Trần Trung Tr.

Về nuôi dưỡng con chung: Cháu Trần Ngọc Diễm M, sinh ngày 27/7/2013 chị D đồng ý để anh Tr tiếp tục nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản: Không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết.

Tại đơn xin giải quyết vắng mặt ngày 11/10/2021 chị D xác định vẫn giữ yêu cầu khởi kiện và xin Tòa án không tiến hành hòa giải, xét xử vắng mặt chị.

* Ý kiến trình bày của bị đơn anh Trần Trung Tr: Tại bản khai ngày 11/10/2021 anh Tr xác định về hôn nhân đúng như lời chị D trình bày. Lý do D xin ly hôn là do không còn tình cảm với anh Tr, D xin ly hôn thì anh đồng ý, mâu thuẫn vợ chồng cách đây khoảng 4 năm anh Tr phát hiện D nhắn tin hẹn hò đi chơi với người khác nhưng anh đã bỏ qua, lần này D đã bỏ nhà đi khoảng 4 tháng nay không về, từ khi D bỏ đi anh nuôi cháu M vẫn đảm bảo tốt mọi mặt cho cháu. Nên khi ly hôn anh yêu cầu tiếp tục nuôi cháu M không yêu cầu D phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung thống nhất tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do tình hình dịch bệnh, anh Tr đi làm ăn xa nên xin Tòa án xét xử vụ án vắng mặt anh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Đỗ Thị D có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Long Hồ giải quyết ly hôn anh Trần Trung Tr cư trú tại số 101B/7, ấp An Th, xã An B, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Ngày 11 tháng 10 năm 2021 chị Đỗ Thị D có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, ngày 13/10/2021 anh Trần Trung Tr có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt chị Đỗ Thị D và anh Trần Trung Tr.

[2] Về nội dung:

[ 2.1] Về quan hệ hôn nhân chị Đỗ Thị D và anh Trần Trung Tr có đăng ký kết hôn tại UBND xã An B, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 29/8/2013 đúng theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận. Chị Đỗ Thị D xin ly hôn anh Trần Trung Tr, anh Tr đồng ý ly hôn. Đây là sự tự thỏa thuận của các đương sự không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Do đó, áp dụng Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện ly hôn giữa chị Đỗ Thị D và anh Trần Trung Tr.

[2.2] Về con chung: Cháu Trần Ngọc Diễm M, sinh ngày 27/7/2013 chị Diễm đồng ý để anh Tr tiếp tục nuôi dưỡng, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Trần Trung Tr đồng ý tiếp tục nuôi dưỡng cháu M, anh không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng nuôi con. Đây là sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không trái pháp luật, đạo đức xã hội cho nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự thỏa thuận của anh, chị. Chị D không trực tiếp nuôi con chung nhưng có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, anh Tr không được ngăn cản.

[2.3] Về quan hệ tài sản: chị Đỗ Thị D và anh Trần Trung Tr thống nhất không tranh chấp không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Chị Đỗ Thị D phải nộp số tiền 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 9, 55 và Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Đỗ Thị D và anh Trần Trung Tr.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Ngọc Diễm M, sinh ngày 27/7/2013 cho anh Trần Trung Tr tiếp tục nuôi dưỡng.

3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị Đỗ Thị D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

4. Về quan hệ tài sản: chị Đỗ Thị D và anh Trần Trung Tr tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

5. Về án phí sơ thẩm: Buộc chị Đỗ Thị D phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Khấu trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo lai thu số 0006832 ngày 08 tháng 7 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ. Vậy chị Đỗ Thị D đã nộp đủ không phải nộp thêm.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6,7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

7. Án xử công khai nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn, nuôi con số 121/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:121/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về