Bản án về tranh chấp yêu cầu ly hôn và nuôi con số 43/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HD - TỈNH BL

BẢN ÁN 43/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2022 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 09 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện HD xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 222/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn và nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị NTU, sinh năm 1987 Địa chỉ: ấp PHT, thị trấn PL, huyện PL, tỉnh BL.

2.Bị đơn: Anh NDK, sinh năm 1992 Địa chỉ: ấp NH, xã NQ A, huyện HD, tỉnh BL (Chị U có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, anh K vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07/12/2021, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị NTU trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: giữa chị với anh NDK đi đến hôn nhân do quen biết, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục tại địa phương vào năm 2014 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã NQ A, huyện HD, tỉnh BL vào ngày 30/9/2014 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn: do trong thời gian chung sống giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh K không lo làm ăn mà lại ham mê cờ bạc, dẫn đến nợ nần, anh K nhiều lần đánh đập chị, hiện chị và anh K đã sống ly thân với nhau hơn 02 năm, trong khoảng thời gian sống xa nhau vợ chồng cũng có liên lạc qua lại với nhau nhưng cũng không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Nay chị nhận thấy vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh NDK.

Về con chung: chị NTU xác định trong thời gian chung sống giữa chị và anh K có với nhau 02 người con chung tên NDK1, sinh ngày15/11/2015 và NHBN, sinh ngày 16/7/2018 (đã chết năm 2020), hiện cháu Khanh đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu NDK1 và không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: chị NTU xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên khi ly hôn không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đối với anh NDK: Mặc dù anh K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh K vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án mà không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh K theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện HD tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh NDK chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: giữa chị U và anh K kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của chị U và anh K là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, hiện tại chị U xác định chị không còn tình cảm với anh K. Vợ chồng không còn khả năng tiếp tục chung sống. Điều này chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của chị U và anh K nếu tiếp tục kéo dài thì cũng không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị U được ly hôn với anh K là phù hợp với quy định của pháp luật;

Về con chung: Từ lúc vợ chồng chị U và anh K sống ly thân với nhau, chị U là người trực tiếp nuôi con chung. Chị U vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này và để tránh làm xáo trộn cuộc sống của con. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao con cho chị U được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp.

Anh NDK có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị U không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết Về tài sản chung và nợ chung: Chị U xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí thì chị U phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị U có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn và nuôi con với anh K. Anh K có địa chỉ cư trú tại huyện HD.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện HD.

Chị NTU có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị NTU.

Anh NDK đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh K vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh NDK.

[2] Về nội dung vụ án: chị U và anh K chung sống với nhau vào năm 2014, hôn nhân trên tinh thần tự nguyện. Quá trình chung sống chị U và anh K có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã NQ A, huyện HD, tỉnh BL vào ngày 30/9/2014 và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên hôn nhân của chị U và anh K là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị U đối với anh K thì Hội đồng đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị U và anh K lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Hiện chị U và anh K đã sống ly thân với nhau hơn 2 năm. Trong thời gian qua cả chị U và anh K đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện muốn hàn gắn lại với nhau, chị U và anh K không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Chị U xác định vợ chồng chị không còn khả năng tiếp tục chung sống, tình cảm vợ chồng không còn. Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống vợ chồng giữa chị U và anh K là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân của không đạt được, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị U đối với anh K là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

Về nuôi con chung: Từ lúc vợ chồng chị U và anh K sống ly thân với nhau chị U là người trực tiếp nuôi con chung. Chị U vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao con cho chị U được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục con chung là hoàn toàn phù hợp.

Anh NDK được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc các con chung không ai được cản trở Về cấp dưỡng nuôi con: Chị U không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết Về tài sản chung và nợ chung: Chị U xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị U phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị NTU đối với anh NDK; Xử cho chị NTU được ly hôn với anh NDK 2/.Về nuôi con chung: giao người con chung tên NDK1, sinh ngày 15/11/2015 cho chị NTU nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh NDK được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc các con chung không ai được cản trở Về cấp dưỡng nuôi con: Chị NTU không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh NDK.

3/. Về tài sản chung và nợ chung: Chị NTU không đặt ra yêu cầu nên xem xét giải quyết.

4/. Về án phí: Chị NTU phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006028 ngày 20 tháng 12 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện HD.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị NTU và anh NDK được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp yêu cầu ly hôn và nuôi con số 43/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:09/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về