TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 74/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Trong ngày 30 tháng 06 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 135/2022/TLST–HNGĐ, ngày 15 tháng 04 năm 2022 về việc tranh chấp xin ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2022/QĐXXST–HNGĐ, ngày 27 tháng 05 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Lê Hồng C, sinh năm 1983 Địa chỉ: ấp A, xã Đ, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang
2. Bị đơn: Chị Thị B, sinh năm 1997 Địa chỉ: ấp T, xã N, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
(Anh Lê Hồng C vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt; chị Thị B vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/04/2022 và tại bản tự khai ngày 15/04/2022 nguyên đơn anh Lê Hồng C trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh C và chị B có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Định An, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang vào ngày 19/11/2020. Trong thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 01 năm nay. Nay anh C nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Thị B.
Về quan hệ con chung: Anh C xác định giữa anh và chị Thị B không có con chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Anh C xác định giữa anh và chị Thị B không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngoài ra, anh không có yêu cầu gì khác.
Đối với bị đơn chị Thị B: Tòa án có tiến hành giao thông báo thụ lý và tiến hành lấy lời khai đối với chị Thị B nhưng chị Thị B không có mặt ở địa phương nên không thể tiến hành giao thông báo thụ lý và không thể tiến hành lấy lời khai đối với chị Thị B. Bên cạnh đó, Tòa án có tiến hành niêm yết các thủ tục theo qui định pháp luật do chị Thị B không có mặt ở địa phương. Chính quyền địa phương cũng xác định, chị Thị B vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp T, xã N, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu và hiện tại không có ở địa phương nhưng lâu lâu chị Thị B có về địa phương một lần.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi tham gia tố tụng cho đến nay, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Hồng C được ly hôn chị Thị B;
2. Về quan hệ con chung: Anh Lê Hồng C không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết;
3. Về quan hệ tài sản: Anh Lê Hồng C không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật: Anh C khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị Thị B nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn” là đúng quy định.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn chị Thị B có nơi đăng ký thường trú tại ấp T, xã N, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
[3] Nguyên đơn anh Lê Hồng C tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với anh C. Bị đơn chị Thị B vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với chị Thị B.
Về nội dung:
[4] Về quan hệ hôn nhân: Anh C và chị B có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại xã Định An, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang vào ngày 19/11/2020 nên quan hệ hôn nhân giữa anh C và chị B là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống đến nay, anh C xác định anh và chị B có phát sinh nhiều mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh C không thể hàn gắn với chị B được nữa. Hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 01 năm nay. Nay anh C nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Thị B. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành xác minh được biết giữa anh C và chị B có phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng lúc sống chung thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 01 năm nay. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho anh Lê Hồng C được ly hôn chị Thị B.
[5] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống anh C xác định giữa anh và chị Thị B không có con chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[6] Về quan hệ tài sản: Anh C xác định giữa anh và chị Thị B không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì anh Lê Hồng C phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.
Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình;
Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Hồng C.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Hồng C được ly hôn chị Thị B.
2/ Về con chung: Anh Lê Hồng C không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.
3/ Về tài sản chung: Anh Lê Hồng C không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.
4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh Lê Hồng C phải nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng anh C đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0006273 ngày 15/04/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.
Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật./.
Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 74/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 74/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về