Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 25/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/02/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 14 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 18/2022/TLST-HN ngày 19 tháng 01 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1988 Địa chỉ: ấp KTB, xã TP, thị xã GR, tỉnh Bạc Liêu.

2/. Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1990 Địa chỉ: ấp GC, xã ĐH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu (Chị M và anh T có yêu cầu xin được vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12/01/2022, lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Nguyễn Thị M và bị đơn anh Phạm Văn T thống nhất trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị M và anh T tự nguyện yêu thương và chung sống với nhau khoảng năm 2017, không có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, đến nay anh chị đã có 01 con chung, nhưng vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị M xác định: thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng thời gian gần đây thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Nguyên nhân chính là do anh T không lo làm ăn, mà chủ yếu là đam mê đá gà, không quan tâm lo lắng chăm sóc cho cuộc sống của gia đình, chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng chồng chị không thay đổi và còn nhiều lần hành hung đánh đập chị. Vợ chồng anh chị ly thân khoảng hơn 06 tháng qua. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng cũng không thể hàn gắn lại được và chị cũng không còn tình cảm với chồng chị, nên chị M yêu cầu xin được ly hôn với chồng chị là anh Phạm Văn T.

Anh T xác định: Trong thời gian chung sống vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Vợ chồng anh chị ly thân khoảng hơn 06 tháng qua. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng cũng không thể hàn gắn lại được nên anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của vợ anh là chị Nguyễn Thị M.

Về nuôi con chung: chị M và anh T thống nhất xác định thời gian chung sống vợ chồng anh chị có 01 người con chung tên Phạm Nguyễn Anh Th, sinh ngày 11/7/2018, hiện còn đang sống với chị M. Khi ly hôn chị M và anh T thống nhất giao con cho chị M được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục. Chị M và anh T thống nhất không yêu cầu Tòa án xem xét về cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ: chị M và anh T cùng thống nhất xác định anh chị không có tài sản chung, không có thiếu nợ ai cũng như không ai thiếu nợ vợ chồng anh chị, khi ly hôn anh chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của các đương sự là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: chị M và anh T chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết theo quy định của pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị M và anh T.

Về con chung: đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của chị M và anh T, giao người con tên Phạm Nguyễn Anh Th, sinh ngày 11/7/2018 cho chị M được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục; Vấn đề cấp dưỡng nuôi con các đương sự thống nhất không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Do chị M và anh T không có tài sản chung, không có thiếu nợ ai cũng như không ai thiếu nợ vợ chồng anh chị, khi ly hôn anh chị không yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình thì chị M phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị M có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh T. Anh T có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị M và anh T có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị M và anh T.

[2] Về nội dung vụ án: chị M và anh T thống nhất xác định anh chị chung sống với nhau vào khoảng năm 2017, việc chung sống trên tinh thần tự nguyện, đến nay thì anh chị đã có con chung, nhưng vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy việc không đi đăng ký kết hôn giữa chị M và anh T là đã vi phạm khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…” Do đó theo quy định của pháp luật thì hôn nhân giữa chị M và anh T không có giá trị pháp lý, không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay chị M xin ly hôn với anh T thì Hội đồng xét xử không giải quyết cho chị M và anh T ly hôn với nhau, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị M và anh T là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung: anh Mơ và anh T xác định thời gian chung sống vợ chồng anh chị có 01 người con chung tên Phạm Nguyễn Anh Th, sinh ngày 11/7/2018, hiện đang sống với chị M. Khi ly hôn chị M và anh T thống nhất thỏa thuận giao con cho chị M được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con vợ chồng anh chị đã thống nhất thỏa thuận không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Sự thỏa thuận của chị M và anh T là phù hợp với quy định của pháp luật, nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Anh T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị M và anh T thống nhất xác định anh chị không có tài sản chung, không có thiếu nợ ai cũng như không ai thiếu nợ vợ chồng anh chị, khi ly hôn anh chị không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị M phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Nguyễn Thị M và anh Phạm Văn T là vợ chồng.

2/. Về nuôi con chung: Giao người con tên Phạm Nguyễn Anh Th, sinh ngày 11/7/2018 cho chị Nguyễn Thị M được nuôi dưỡng giáo dục; Anh Phạm Văn T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm thời miễn cấp dưỡng nuôi con cho anh Phạm Văn T.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: chị Nguyễn Thị M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002019 ngày 19/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho các đương sự chị Nguyễn Thị M và anh Phạm Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 25/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về