Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 55/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 55/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 09 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 58/2022/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2020, về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Kim L, sinh năm 1972 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 22, xã LĐĐA, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

Chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đơn đề ngày 04/4/2022.

- Bị đơn: Ông Trần Minh T, sinh năm 1970 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp 22, xã LĐĐA, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 09/02/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Kim L trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Trần Minh T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1996 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong thời gian chung sống thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hợp nên đã không còn chung sống với nhau từ khoảng tháng 8 năm 2021. Nay bà L xác định không thể tiếp tục chung sống với ông T, cuộc sống chung không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà L xác định bà và ông Trần Minh T có ba con chung tên Trần Hữu Đ, sinh năm 1997; Trần Hữu Đ1, sinh năm 1999 và Trần Kim N, sinh ngày 25/10/2007. Anh Đ và anh Đ1 đã trưởng thành, tự lao động nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà L yêu cầu tiếp tục nuôi em N, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác định không có tài sản chung với ông T nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Trần Minh T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng, cũng như triệu tập ông T tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng ông T vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án tới thời điểm này thấy rằng Thẩm phán, Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 71, còn bị đơn không thực hiện đúng theo quy định tại Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 28, 35, 39, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Kim L với ông Trần Minh T. Bà L xác định bà và ông Trần Minh T có ba con chung tên Trần Hữu Đ, sinh năm 1997; Trần Hữu Đ1, sinh năm 1999 và Trần Kim N, sinh ngày 25/10/2007. Anh Đ và anh Đ1 đã trưởng thành, tự lao động nuôi sống bản thân, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét; em N hiện nay bà L đang nuôi dưỡng và em N cũng có nguyện vọng tiếp tục sống chung với bà L nên cần tiếp tục giao em N cho bà L nuôi dưỡng là phù hợp và đảm bảo được cuộc sống ổn định của em N; bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét. Về tài sản chung và nợ chung, bà L xác định không có tài sản chung và không có nợ chung với ông T, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà L phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Kim L yêu cầu ly hôn với ông Trần Minh T, ông T cư trú tại ấp 22, xã LĐĐA, huyện H, tỉnh Bạc Liêu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bà Nguyễn Kim L có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, ông Trần Minh T đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 và điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà L và ông T.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của bà L yêu cầu ly hôn với ông T, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà L và ông T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1996 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong thời gian chung sống bà L và ông T phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính cách không hợp nhau nên đã chấm dứt việc chung sống vào tháng 8 năm 2021. Như vậy, cuộc sống chung giữa bà L và ông T đã có nhiều mâu thuẫn, không thể kéo dài nên khả năng đoàn tụ là không có.

Tại khoản 1 Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng…” Khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng…” Căn cứ vào quy định pháp luật nêu trên, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Kim L với ông Trần Minh T.

[4] Về con chung: Bà L xác định bà và ông Trần Minh T có ba con chung tên Trần Hữu Đ, sinh năm 1997; Trần Hữu Đ1, sinh năm 1999 và Trần Kim N, sinh ngày 25/10/2007. Anh Đ và anh Đ1 đã trưởng thành, tự lao động nuôi sống bản thân, bà L không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Xét yêu cầu khởi kiện của bà Loan yêu cầu tiếp tục nuôi em Ng. Tại Biên bản ghi nhận ý kiến ngày 16/02/2022 (Bút lục 23) em N có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với bà L. Hội đồng xét xử xét thấy: Để không làm xáo trộn cuộc sống của em N và đảm bảo có cuộc sống ổn định thì cần tiếp tục giao em N cho bà L nuôi dưỡng là phù hợp. Bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét, giải quyết. Ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác định không có tài sản chung và không có nợ chung với ông T, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[6] Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà L phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238, Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Kim L với ông Trần Minh T.

2. Về con chung: Giao em Trần Kim N, sinh ngày 25/10/2007 cho bà Nguyễn Kim L tiếp tục nuôi dưỡng. Bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét.

Ông Trần Minh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

4. Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng bà Nguyễn Kim L phải chịu. Bà Loan đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002072 ngày 15/02/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí 300.000 đồng.

5. Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Án xử sơ thẩm công khai, bà Nguyễn Kim L và ông Trần Minh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 55/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về