Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 33/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 04 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số: 178/2021/TLST–HNGĐ, ngày 19 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST–HNGĐ, ngày 18 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị V, sinh năm 1972. Địa chỉ: Ấp B, xã V, huyện H, tỉnh B. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Bùi Văn L, sinh năm 1969. Địa chỉ: Ấp B, xã V, huyện H, tỉnh B. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 01 tháng 4 năm 2021 và lời khai trong quá trình chuẩn bị xét xử, bà Trần Thị V là nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị V và ông Bùi Văn L có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Biển Bạch Đông, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau ngày 30/11/2009. Trong thời gian đầu, vợ chồng ông bà chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 15 năm cho đến nay. Nay bà V nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông L.

Về quan hệ con chung: Bà V xác định trong quá trình chung sống, giữa bà V và ông L có 02 người con chung là cháu Võ Văn M, sinh năm 1998 và Bùi Thị Thảo Q, sinh ngày 20/12/2005. Hiện tại cháu Mãi đã trưởng thành nên bà V không có yêu cầu gì; Đối với cháu Q hiện tại đang sống với bà V nên bà yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Q và bà không yêu cầu cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Bùi Văn L: Tòa án có tiến hành giao thông báo thụ lý và tiến hành lấy lời khai đối với ông L nhưng ông L không có mặt ở địa phương nên không thể tiến hành giao thông báo thụ lý và không thể tiến hành lấy lời khai đối với ông L được. Do đó, Tòa án tiến hành niêm yết các thủ tục theo quy định pháp luật cho ông L. Chính quyền địa phươg xác định: Ông Bùi Văn L vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Ấp B, xã V, huyện H, tỉnh B và hiện tại không có ở địa phương nhưng lâu lâu ông L có về địa phương một lần.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật; Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình;Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên đề nghị xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn; Về nội dung: Sau khi phân tích yêu cầu khởi kiện, những quy định của pháp luật, đề nghị: Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Trần Thị V được ly hôn với ông Bùi Văn L. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Bùi Thị Thảo Q, sinh ngày 20/12/2005 cho bà V nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Ông L không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng ông L được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Về quan hệ tài sản: Bà Trần Thị V không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết. Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Trần Thị V khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Bùi Văn L và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Bùi Văn L có nơi đăng ký thường trú tại Ấp B, xã V, huyện H, tỉnh B nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn bà Trần Thị V có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với bà V. Bị đơn ông Bùi Văn L vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị V và ông Bùi Văn L, tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng, có tổ chức đám cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Biển Bạch Đông, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 30/11/2009 nên quan hệ hôn nhân giữa bà V và ông L là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Tòa án có tiến hành xác minh được biết giữa bà V và ông L có phát sinh mâu do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, hiện cả hai không sống chung một nhà thời gian dài nên mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho bà V được ly hôn với ông L.

[5] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống bà V xác định giữa bà và ông L có 02 người con chung là cháu Võ Văn M, sinh năm 1998 và Bùi Thị Thảo Q, sinh ngày 20/12/2005. Hiện tại cháu Mãi đã trưởng thành nên bà V không có yêu cầu gì; Đối với cháu Q hiện tại đang sống với bà V nên bà yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Q và bà không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu Q hiện đang sống ổn định với bà V và cháu có nguyện vọng tiếp tục ở cùng bà V nên giao cháu Q cho bà V tiếp tục nuôi dưỡng. Ông L không phải cấp dưỡng nuôi con chung, ông L được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

[6] Về quan hệ tài sản: Bà Trần Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bà Trần Thị V phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

[8] Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 51, 53, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị V được ly hôn với ông Bùi Văn L.

2. Về con chung: Giao cháu Bùi Thị Thảo Q, sinh ngày 20/12/2005 cho bà Trần Thị V tiếp tục nuôi dưỡng. Ông Bùi Văn L không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng ông L được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung: Bà Trần Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Bà Trần Thị V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, bà V đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005913 ngày 18/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay được đối trừ.

Bà Trần Thị V và ông Bùi Văn L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:04/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về