TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 28/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 26 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 215/ 2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2021, về tranh chấp hôn nhân và gia đình “Xin ly hôn và nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 199/2021/QĐXXST-HN ngày 27 tháng 12 năm 2021 giữa:
Nguyên đơn : Anh Hà Huệ Q, sinh năm 1989. Địa chỉ cư trú: tổ 8, ấp Phú Đ B, xã Phú Th, huyện Phú T, tỉnh An Giang.
Bị đơn: Chị Trần Thị Ngọc C, sinh năm 1992. Địa chỉ cư trú: tổ 11, ấp Phú L, xã Phú Th, huyện Phú T, tỉnh An Giang.
(Anh Q có đ ơn xin vắng mặt , chị Có vắng mặt )
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bảng tự khai nguyên đơn anh Hà Huệ Q trình bày:
Về hôn nhân: anh và chị Trần Thị Ngọc C được mai mối, tổ chức lễ cưới năm 2011, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Thạnh, huyện Phú Tân. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung cha mẹ bên chồng đến cuối năm 2013 không còn hạnh phúc nguyên nhân do tính tình không phù hợp, chị Có nói chuyện ngang ngược, không tôn trọng mẹ chồng, có lần đánh mẹ chồng, mâu thuẫn hai bên gia đình cho đến cuối năm 2013, chị Có tự mang con về nhà cha mẹ ruột sống rồi bỏ đi Thành phố làm ăn. Đến năm 2017 về được vài ngày rồi đi làm đến nay, tình cảm vợ chồng không còn, yêu cầu xin ly hôn với Trần Thị Ngọc C.
+ Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Hà Gia B, sinh ngày 07/12/2012 và Hà Phương Gia H, sinh ngày 06/10/2017, từ khi chị C bỏ đi con sống với anh. Nay ly hôn anh Q yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu chị Ngọc C cấp dưỡng nuôi con.
+ Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
+ Về nợ phải thu, phải trả: Không có, không yêu cầu tòa án giải quyết.
Chọ Trần Thị Ngọc C vắng mặt không có lời trình bày.
* Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử; những người tham gia tố tụng chấp hành đúng pháp luật kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được quy định tại các Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 203 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, chứng tỏ thái độ chấp hành pháp luật chưa nghiêm.
Về nội dung :
Mối quan hệ hôn nhân giữa anh Hà Huệ Q và chị Trần Thị Ngọc C là hợp pháp. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do chị Ngọc C không lo làm ăn, không quan tâm lo lắng cho gia đình chồng, không tôn trọng mẹ chồng. Anh Q có nhiều lần khuyên can, nhiều lần như thế mà chị Ngọc C không sửa đổi, nay anh Q yêu cầu ly hôn, yêu cầu tiếp tục nuôi con không yêu cầu chị Có cấp dưỡng là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung nợ chung đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị Ngọc C đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt, việc vắng mặt của chị không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên HĐXX xét xử vắng mặt theo Điều 227, Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự để đảm bảo quyền lợi cho các bên, chị Trần Thị Ngọc C đăng ký hộ khẩu thường trú tại: ấp Phú Lộc, xã Phú Thạnh, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Nên anh Hà Huệ Q khởi kiện xin ly hôn là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân theo quy định tại Điều 28 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự
[2] Về nội dung:
Hôn nhân giữa anh Hà Huệ Q và chị Trần Thị Ngọc C, do sự tự nguyện đến với nhau được cha mẹ chấp thuận rồi tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra.
Anh Q cho rằng, chị Có không lo làm ăn, tính tình ngang ngược, có thái độ không tôn trọng mẹ chồng, cuốc sống không phù hợp với gia đình chồng, nhiều lần nhưng chị không thay đổi nên mâu thuẫn ngày thêm trầm trọng, không thể hòa giải được và giữa hai bên không có biện pháp hàn gắn, suốt quá trình tố tụng chị Ngọc C cũng vắng mặt không có lý do, cho thấy tình cảm giữa vợ, chồng đã trầm trọng, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu ly hôn là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về con chung gồm: Vợ chồng có 02 con chung tên Hà Gia B, sinh ngày 07/12/2012 và Hà Phương Gia H, sinh ngày 06/10/2017. Quá trình làm việc anh Q yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu chị Ngọc C cấp dưỡng nuôi con, để giữ sự ổn định của đứa trẻ, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục giao cho anh Q được tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng: theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình thì người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng, tuy nhiên chị Ngọc C vắng mặt không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Trong thời gian nuôi con, anh Q phải tạo điều kiện thuận lợi cho chị C khi đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con.
Về tài sản chung và nợ phải thu: Quá trình làm việc cũng như tại phiên tòa hôm nay chị không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.
Về nợ phải trả: Các đương sự khai không có, vì vậy Hội đồng xét xử ghi nhận, nhưng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
[3] Về án phí: Anh Hà Huệ Q là người xin ly hôn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình theo quy định pháp luật.
Vì những lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 9; Điều 51, 53, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147 khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 27; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Q Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: anh Hà Huệ Q và chị Trần Thị Ngọc C được ly hôn. Giấy chứng nhận kết hôn số 13/2012 ngày 06/02/2012 do Ủy ban nhân dân xã Phú Thạnh, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp cho anh chị không còn giá trị pháp lý kể từ thời điểm Bản án có hiệu lực pháp luật.
Về con chung: anh Hà Huệ Q được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục 02 con chung tên Hà Gia B, sinh ngày 07/12/2012 và Hà Phương Gia H, sinh ngày 06/10/2017 cho đến khi con chung trưởng thành hoặc lao động được chị Ngọc Có không phải cấp dưỡng nuôi con.
Việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chưa thành niên không cố định.
Trong thời gian nuôi con, anh Q phải tạo điều kiện thuận lợi cho chị Ngọc C khi đến thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở.
Về quan hệ tài sản chung và nợ: Không yêu cầu.
Án phí: Anh Hà Huệ Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và Gia đình là 300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0002522 ngày 06/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân. Chị Trần Thị Ngọc C không phải chịu án phí.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng chị Trần Thị Ngọc C được quyền kháng cáo kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản sao Bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 28/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 28/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về