Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 340/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 340/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 164/ 2021/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021, tranh chấp về Hôn nhân và gia đình “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 158/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Cẩm T, sinh năm 1998.

Nơi cư trú: tổ 7, khóm Long Q C, phường Long Ph, thị xã Tân Ch, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Đặng Văn D, sinh năm 1991.

Nơi cư trú: tổ 2, ấp Phú H B, xã Phú L, huyện Phú T, tỉnh An Giang. (Chị T và anh D vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 22/02/2021 bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn chị Huỳnh Thị Cẩm T trình bày:

Sau thời gian tìm hiểu chị và anh D chung sống với nhau, không có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Phú Lâm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 16, ngày 06/02/2017.

Vợ chồng chung sống thời gian đầu hạnh phúc, về sau phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, nguyên nhân do anh D không quan tâm chăm sóc vợ con, không chăm lo kinh tế gia đình, chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng không được, đến năm 2019 không thể tiếp tục chung sống nhau được nữa nên chị bỏ đi, mỗi người sống mỗi nơi, vợ chồng chính thức ly thân đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống của nhau. Tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn với anh Đặng Văn D.

Về con chung: Chị và anh D có 02 con chung tên Đặng Hoàng N sinh ngày 09/4/2017 và Đặng Hoàng Nguyên Kh sinh ngày 28/02/2019, hiện đang sống với chị T. Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra không có ý kiến nào khác.

- Bị đơn anh Đặng Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, không có lời trình bày.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, anh D vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án là chấp hành pháp luật chưa nghiêm.

- Về nội dung: Hôn nhân của chị T và anh D được xác lập trên cơ sở tự tìm hiểu, tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ; quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cự cải, từ khi ly thân đến nay không hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu của chị T xin ly hôn và nuôi con chung là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề xuất nội dung giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp: chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh D và nuôi con chung nên xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn và nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: anh Đặng Văn D là bị đơn có nơi cư trú tại ấp Phú Hòa B, xã Phú Lâm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

Chị T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; anh D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh D theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh D. Xét chứng cứ có trong hồ sơ cùng kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa thể hiện, hôn nhân của anh, chị được xác lập năm 2017 trên cơ sở tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng chính thức ly thân từ năm 2019 đến nay, không hàn gắn được tình cảm vợ chồng trong thời gian dài sau khi ly thân mà anh, chị mỗi người sinh sống mỗi nơi, không ai quan tâm ai, từ đó tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được điều này phù hợp với lời trình bày của bà Nguyễn Thị Bích Phượng (mẹ anh D); do đó, chị T yêu cầu ly hôn là có căn cứ được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Về nuôi con chung: Chị T và anh D có 02 con chung tên Đặng Hoàng N sinh ngày 09/4/2017 và Đặng Hoàng Nguyên Kh sinh ngày 28/02/2019, hiện đang sống với chị T. Chị T yêu cầu được tiếp tục, chăm sóc nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu cấp dưỡng cho con.

Xét, từ khi ly thân đến nay, 02 cháu N và Kh (chưa đủ 7 tuổi) do chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, đảm bảo 02 cháu phát triển bình thường về thể chất, tinh thần nên căn cứ quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nên giao 02 cháu cho chị T tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến thành niên, tự lập được; anh D không phải cấp dưỡng cho con; chị T phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để anh D đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở. Trường hợp, người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con; mặt khác, nếu có căn cứ cho rằng, chị T không còn đảm bảo các điều kiện nuôi dạy con hoặc có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: Các bên không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Ghi nhận lời trình bày của đương sự không có nợ chung, nhưng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị T và anh D phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Ngoài ra, các bên không tranh chấp về vấn đề gì khác nên không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Anh D không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 26; khoản 5, khoản 6 Điều 27 và khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

- Về hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Cẩm T được ly hôn với anh Đặng Văn D. Giấy chứng nhận kết hôn số số 32, ngày 15/4/2014 của Ủy ban nhân dân xã Phú Lâm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp cho chị Huỳnh Thị Cẩm T và anh Đặng Văn D không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Chị Huỳnh Thị Cẩm T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng 02 con chung tên Đặng Hoàng N sinh ngày 09/4/2017 và Đặng Hoàng Nguyên Kh sinh ngày 28/02/2019. Anh D không phải cấp dưỡng cho con .

Chị T phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để anh D đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: không có.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Huỳnh Thị Cẩm T phải chịu án phí hôn nhân, gia đình là 300.000 đồng, được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002461 ngày 14/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Anh Đặng Văn D không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản sao Bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 340/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:340/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về