TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C - TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 99/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 09 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 209/2021/TLST – HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2021/QĐST – HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm: 1996 Địa chỉ: Ấp 4, xã P, huyện C, tỉnh Long An
2. Bị đơn: Anh Đặng Văn Q, sinh năm: 1992 Địa chỉ: Ấp 4, xã P, huyện C, tỉnh Long An (Nguyên đơn có mặt; bị đơn vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 26/4/2021 và lời khai tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu H trình bày như sau: Chị và anh Q cưới nhau năm 2014, hôn nhân do tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 18/11/2014 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Long An. Sau khi cưới chị về sống chung bên gia đình chồng, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh Q thường xuyên rượu chè, không chăm sóc gia đình và có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vả, xô xát. Mặc dù đã nhiều lần giải quyết mâu thuẫn để vợ chồng tiếp tục chung sống nhưng vẫn không được nên từ năm 2019 chị bỏ về bên nhà cha mẹ ruột ở và vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng cũng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Q.
Về nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Đặng Minh T, sinh ngày 19/10/2014 và Đặng Minh Th, sinh ngày 14/12/2016 hiện đang sống với chị H. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có Về nợ chung: Không có Bị đơn anh Đặng Văn Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Q không đến Tòa án để tham gia hòa giải và cũng không nộp bản tường trình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh Đặng Văn Q nhưng anh Q vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Q.
[2] Về nội dung:
[2.1] Chị Nguyễn Thị Thu H khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Đặng Văn Q là quan hệ pháp luật “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
[2.2] Chị H và anh Q cưới nhau có đăng ký kết hôn ngày 18/11/2014 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Long An là hôn nhân hợp pháp. Tại phiên tòa chị H yêu cầu được ly hôn với anh Q vì mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể giải quyết để tiếp tục chung sống hạnh phúc.
[2.3] Xét thấy anh Đặng Văn Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng nhưng anh Q vẫn không đến tham gia hòa giải cũng như tham dự phiên tòa từ đó cho thấy anh Q cũng không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm với chị H để vợ chồng quay về tiếp tục chung sống do đó áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Đặng Văn Q.
[2.4] Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên Đặng Minh T, sinh ngày 19/10/2014 và Đặng Minh Th, sinh ngày 14/12/2016, hiện đang sống với chị H. Chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy 02 cháu Minh T và Minh Th hiện đang sống ổn định với chị H, cháu T có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ và anh Q cũng không có ý kiến gì về con chung cũng như việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H cho chị H được tiếp tục nuôi 02 con chung và anh Q tạm thời không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
[2.5] Về tài sản chung: Chị H trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu anh Q có chứng cứ chứng minh vợ chồng có tài sản chung và có yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng thì được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác.
[2.6] Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Đặng Văn Q.
2. Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Thu H được tiếp tục nuôi 02 con chung tên Đặng Minh T, sinh ngày 19/10/2014 và Đặng Minh Th, sinh ngày 14/12/2016. Anh Đặng Văn Q tạm thời không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai số 0009740 ngày 27/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, chị H đã nộp đủ án phí.
Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định đựơc thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người đựơc thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 99/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 99/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về