Bản án về tranh chấp ly hôn số 75/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC – TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 75/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 362/2022/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lưu Thị Cẩm T, sinh năm: 1978; Địa chỉ: Số 484, đường D, Phường 10, Quận 8, Thành M. (Vắng mặt có đơn xin vắng)

2. Bị đơn: Ông Đỗ Trung T, sinh năm: 1973; Địa chỉ: Tổ 10, Khu phố H, thị trấn G, huyện G, tỉnh A. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Thị Cẩm T: Bà Lưu Thị Cẩm T yêu cầu ly hôn với ông Đỗ Trung T; Về con chung, có 02 con chung tên là Đỗ Lưu Hoài B, sinh ngày 19/3/2006 và Đỗ Lưu Hoài N sinh ngày 11/02/2010. Hiện các con chung đang sống với bà T. Sau khi ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung bà T không yêu cầu giải quyết; Về án phí, bà T đồng ý chịu toàn bộ án phí.

Yêu cầu, đề nghị của ông Đỗ Trung T: Ông T không đồng ý ly hôn. Trường hợp ly hôn, về con chung đồng ý theo yêu cầu của bà T.

Các tài liệu chứng cứ của vụ án:

Chứng cứ do bà Lưu Thị Cẩm T cung cấp: Giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của bà T (bản sao); giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); 02 giấy khai sinh con chung (bản sao), bản tự khai, đơn xác nhận cư trú.

Chứng cứ do ông Đỗ Trung T cung cấp: Không có.

Các tình tiết của vụ án:

Bà T trình bày: Bà T và ông T đến với nhau do quen biết, có tổ chức lễ cưới vào năm 2005 nhưng đến năm 2006 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 10, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, theo giấy chứng nhận kết hôn số 85/2011, quyển số 01/2006 ngày 18/5/2006. Sau khi kết hôn thì vợ chồng sinh sống tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, đến năm 2014 thì chuyển về huyện Cần Giuộc sinh sống. Quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn về vấn đề kinh tế gia đình và quan điểm nuôi dạy con cái dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vả. Thời gian dài mâu thuẫn vẫn không được giải quyết nên từ năm 2021 đến nay vợ chồng đã sống ly thân. Nay bà T xác định không còn tình cảm với ông T nên xin ly hôn.

Ông T trình bày: Ông T thống nhất về quá trình kết hôn, chung sống, ông còn thương vợ nên không đồng ý ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà căn cứ các kết quả tranh luận tại phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào nơi cư trú và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, xét vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An và quan hệ tranh chấp ly hôn căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lưu Thị Cẩm T và ông Đỗ Trung T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Ủy ban nhân dân Phường 10, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, theo giấy chứng nhận kết hôn số 85/2011, quyển số 01/2006 ngày 18/5/2006 đúng với quy định tại Khoản 1 Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Bà T yêu cầu ly hôn với ông T do trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn không thể giải quyết. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết, ông T không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, thời gian vợ chồng ly thân từ năm 2021 đến khi bà T xin ly hôn thì ông T không có biện pháp để giải quyết mâu thuẫn giữa vợ chồng. Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng không thành, bà T vẫn cương quyết xin ly hôn và không yêu cầu hòa giải đoàn tụ. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà Lưu Thị Cẩm T là phù hợp với Khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lưu Thị Cẩm T đối với ông Đỗ Trung T.

[3] Về con chung: Có 02 con chung tên là Đỗ Lưu Hoài B, sinh ngày 19/3/2006 và Đỗ Lưu Hoài N, sinh ngày 11/02/2010. Hiện các con chung đang sống với bà T, bà T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, các con chung cũng có nguyện vọng sống với bà T và ông T cũng đồng ý. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T, giao cho bà Lưu Thị Cẩm T nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con bà T không có yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng không xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà Lưu Thị Cẩm T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung vào công quỹ nhà nước theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 các Điều 35, Điều 39, 227, 228, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lưu Thị Cẩm T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lưu Thị Cẩm T được ly hôn với ông Đỗ Trung T.

2. Về con chung: Giao cho bà Lưu Thị Cẩm T trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đỗ Lưu Hoài B, sinh ngày 19/3/2006 và Đỗ Lưu Hoài N, sinh ngày 11/02/2010. Về cấp dưỡng nuôi con bà T không có yêu cầu nên Hội đồng không xét.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không T tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không T tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; cấp dưỡng nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định tại các Điều 69, 70, 71, 72, 81, 82, 83, 85, 110,116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Lưu Thị Cẩm T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sung vào công quỹ Nhà nước. Chuyển 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng mà bà T đã nộp theo biên lai thu số 0013471 ngày 16/05/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An sang án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 75/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:75/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về