TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 616/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 05 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 108/2022/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 150/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm: 1982 (Có mặt);
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 31/1, đường số 49, tổ 5, ấp T, xã T1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm: 1977 (Vắng mặt).
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã S, huyện B, tỉnh H (cũ). Tạm trú: Số 2093 Tỉnh lộ 15, tổ 2, ấp Ph, xã Ph1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn xin ly hôn nộp ngày 02/7/2021 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày:
Bà và ông Nguyễn Văn N xây dựng gia đình vào năm 2003, đến năm 2004 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C. Sau khi xây dựng gia đình vợ chồng bà chung sống trên phần nhà đất do cha bà cho tại ấp T, xã T1, huyện C, quá trình chung sống có hạnh phúc, mâu thuẫn phát sinh vào năm 2018, nguyên nhân do ông N hay đi chơi đêm, mỗi lần về nhà lại gây chuyện với vợ con, đánh bà nhiều lần, bà tìm hiểu thì phát hiện ông N có mối quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài, bà có khuyên nhủ nhưng ông N không nghe. Ông N đã bỏ nhà đi chỗ khác sinh sống từ lúc đứa con thứ hai học lớp 6, từ đó đến nay giữa bà và ông N không còn giữ liên hệ, bà cảm thấy không thể nào chung sống với ông N được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Bà và ông N có 02 con chung, 01 cháu tên Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 07/6/2003 đã đủ tuổi trưởng thành và 01 cháu tên Nguyễn Anh Th, sinh ngày 11/6/2005, khi ly hôn bà đề nghị được nuôi cháu Anh Th, bà không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung bà không tranh chấp, nợ chung không có.
* Bị đơn là ông Nguyễn Văn N vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp:
Tại đơn xin ly hôn nộp ngày 02/7/2021, bà Nguyễn Thị Ngọc T yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Củ Chi giải quyết cho bà ly hôn với ông Nguyễn Văn N, con chung có 02 cháu, 01 cháu đã trưởng thành, còn 01 cháu chưa trưởng thành bà yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, bà không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung bà không tranh chấp, nợ chung không có. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Bị đơn là ông Nam đăng ký tạm trú tại số 2093 Tỉnh lộ 15, tổ 2, ấp Ph, xã Ph1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (có xác nhận tạm trú của Công an xã Ph1, huyện C do bà T nộp) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Củ Chi theo Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[2] Về tố tụng:
Bị đơn là ông Nguyễn Văn N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa (ông N nhận trực tiếp các văn bản tố tụng) nhưng vẫn không đến Tòa án, do đó Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành phiên Tòa vắng mặt ông N theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[3] Về quan hệ hôn nhân:
Bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn N tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 47, quyển số 01/2004 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện C cấp ngày 16/4/2004, đây là hôn nhân hợp pháp.
Xét trình bày của bà T thì bà và ông N tự nguyện xây dựng gia đình, sau khi xây dựng gia đình hai bên chung sống tại nhà và đất do cha bà T cho, sống hạnh phúc đến năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do ông N không quan tâm đến gia đình, đi chơi đêm, về nhà kiếm chuyện chửi mắng vợ con, ông N còn có quan hệ với người phụ nữ khác và bỏ nhà đi hơn 05 năm nay, không còn quan tâm đến gia đình, nay bà nhận thấy giữa bà và ông N không thể nào tiếp tục chung sống với nhau nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Xét ông N không đến Tòa án theo giấy triệu tập để cung cấp lời khai, điều đó cho thấy ông N không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng cùng với bà T, do đó Hội đồng xét xử chỉ xem xét các chứng cứ do bà T cung cấp, bà T và ông N không còn chung sống cùng chung một địa chỉ, do đó Hội đồng xét xử xét không cần thiết phải xác minh về tình trạng hôn nhân của ông bà tại địa phương theo quy định tại Điều 208 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Xét tình trạng quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông N đã đến mức trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài được, mục đích hôn nhân không đạt, căn cứ Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà T được ly hôn với ông N là có cơ sở.
[4] Về con chung:
Bà T và ông N có 02 con chung, 01 cháu đã trưởng thành tên Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 07/6/2003 và 01 cháu chưa trưởng thành tên Nguyễn Anh Th, sinh ngày 11/6/2005, khi ly hôn bà đề nghị được nuôi cháu Th, bà không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.
Xét cháu Th hiện đang sống cùng mẹ và có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ, để ổn định tâm sinh lý của con chung, Hội đồng xét xử giao cháu Th cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Về việc cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con, xét đây là sự tự nguyện của bà T, không trái pháp luật nên ghi nhận sự tự nguyện này. Nếu sau này bà T có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con sẽ được Tòa án giải quyết ở một vụ án khác.
[5] Về tài sản chung: Bà T xác định bà và ông N không tranh chấp.
[6] Về nghĩa vụ dân sự chung: Bà T xác định không có.
[7] Về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xét buộc bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 146, Điều 227, Điều 228, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào Điều 9, Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 - Căn cứ vào Điều 6, Điều 7, Điều 26, Điều 30, Điều 31 và Điều 32 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân:
Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Ngọc T về việc cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Văn N.
Kể từ ngày Bản án phát sinh hiệu lực pháp luật, Giấy chứng nhận kết hôn số 47, quyển số 01/2004 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện C cấp ngày 16/4/2004 cho bà T và ông N không còn giá trị pháp lý.
2. Về con chung:
Bà T và ông N có 02 con chung, 01 cháu đã trưởng thành tên Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 07/6/2003 và 01 cháu chưa trưởng thành tên Nguyễn Anh Th, sinh ngày 11/6/2005.
Giao cháu Th cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà T về việc tạm thời không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi dưỡng con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, yêu cầu của cá nhân, tổ chức theo quy định tại Khoản 5 Điều 84, Khoản 2 Điều 116 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc trợ cấp cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
3. Về tài sản chung: Bà T xác định bà và ông N tự thỏa thuận, không tranh chấp.
4. Về nghĩa vụ dân sự chung: Bà T xác định không có.
5. Về án phí sơ thẩm:
Bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2021/0043669 ngày 11/01/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Củ Chi.
Thi hành tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự.
6. Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 616/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 616/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về