Bản án về tranh chấp ly hôn số 56/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 56/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 96/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 02 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 426/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 481/2021/QĐST-HNGĐ ngày 31/12/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ D – sinh năm 1991(Có mặt) Địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Ông Tsằn A M – sinh năm 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 237/5 T, phường P, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/01/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D trình bày:

1 Bà và ông Tsằn A M tự nguyện đến với nhau, không tổ chức lễ cưới. Bà và ông M có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 64/2016 ngày 30/12/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống chung cùng gia đình nhà ông M một thời gian ngắn. Khi con chung được 01 tháng tuổi bà không sống cùng gia đình ông M mà cùng con chuyển về huyện M, tỉnh Bến Tre sinh sống. Bà vẫn ở tại tỉnh Bến Tre cho đến nay. Ông M thỉnh thoảng có đến thăm con và trao đổi với bà để trở lên Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống cùng ông nhưng bà không đồng ý. Ông M không lo làm kinh tế chỉ ham chơi, cờ bạc, không phụ giúp gì cho bà trong thời gian chung sống. Ông M không phụ giúp với bà về kinh tế để lo cho con. Từ năm 2018 đến nay, ông M không xuống thăm con và hai bên cũng không liên lạc qua lại gì với nhau. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đính hôn nhân không đạt được. Do đó bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông M.

Về quan hệ con chung: Bà D khai vợ chồng có 01 con chung Tsằn Mỹ N sinh ngày 24/10/2016. Bà D yêu cầu được nuôi con vì từ trước đến nay con vẫn sinh sống cùng bà ở Bến Tre. Bà không yêu cầu ông M đóng góp cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà khai không có và không nợ ai.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn ông Tsằn A M nhưng ông M vẫn vắng mặt. Ông M không có lời khai, cũng như Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó Tòa án vẫn đưa vụ án ra xét xử theo luật định.

Tại phiên tòa hôm nay:

Ông Tsằn A M vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú phát biểu quan điểm:

Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định quan hệ tranh chấp về ly hôn. Do bị đơn cư trú tại quận Tân Phú nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Phú.

Thời hạn tố tụng: Vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, kiến nghị rút kinh nghiệm.

Về người tham gia tố tụng : Xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng. Về thu thập chứng cứ : Thu thập chứng cứ đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án : Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn. Căn cứ lời khai và các chứng cứ thu thập được thể hiện vợ chồng bà D và ông M chung sống với nhau có xảy ra mâu thuẫn. Hiện vợ chồng không sống chung nhà nên không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Ông M không đến Tòa án để trình bày ý kiến về quan hệ hôn nhân, điều này thể hiện ông M không mong muốn hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, do đó yêu cầu xin ly hôn của bà D là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về quan hệ con chung : Bà D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Tsằn Mỹ N sinh ngày 24/10/2016. Bà D không yêu cầu ông M đóng góp cấp dưỡng nuôi con. Bà D xác nhận con chung đang do bà trực tiếp nuôi dưỡng và phù hợp với văn bản xác minh tại địa phương thể hiện con chung là trẻ N không sống cùng với ông M tại nhà số 237/5 T, phường P, quận P. Do đó căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà D.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà khai không có và không nợ ai nên không xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa sở thẩm, thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký chấp hành đầy đủ và đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, các đương sự thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét đơn khởi kiện của bà NguyễnThị Mỹ D, Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ tranh chấp về “Ly hôn”. Do ông M hiện đang cư ngụ tại quận P nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục xét xử vắng mặt:

Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Tsằn A M nhưng ông M vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông M theo quy định.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên Tòa sơ thẩm hôm nay, bị đơn ông Tsằn A M không có mặt để trình bày lời khai và cung cấp chứng cứ, mặt dù đã được Tòa án thực hiện các thủ tục tống đạt hợp lệ. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào những chứng cứ, yêu cầu của phía nguyên đơn bà D để xem xét giải quyết vụ án.

[3] Về yêu cầu của đương sự:

Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 64/2016 do Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre cấp ngày 30/12/2016, quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Mỹ D và ông Tsằn A M là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Bà D nhận thấy vợ chồng không thể chung sống với nhau được nữa, mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được do đó bà yêu cầu được ly hôn với ông M.

Căn cứ vào lời khai của bà D và các chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa hôm nay thể hiện thời gian vợ chồng bà D, ông M chung sống với nhau có phát sinh mâu thuẫn. Hiện bà D và ông M không sống chung nhà, mỗi người tự lo cuộc sống của mình không quan tâm chia sẽ những khó khăn trong cuộc sống. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà D và ông M đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, ông M không đến Tòa án để trình bày lời khai, cũng như ý kiến của mình về quan hệ hôn nhân giữa hai bên, thể hiện ông M chưa thật sự thiết tha hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Xét thấy, tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình quy định “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Bà D và ông M không sống chung nhà với nhau nên vợ chồng không quan tâm, chia sẽ những khó khăn trong cuộc sống.

Do đó hai bên không thể thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, yêu cầu xin ly hôn của bà D là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét, bà D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Tsằn Mỹ N sinh ngày 24/10/2016. Bà D không yêu cầu ông M đóng góp cấp dưỡng nuôi con. Ông M không đến Tòa án để trình bày lời khai nên không có cơ sở để xem xét ý kiến của ông đối với con chung. Tuy nhiên việc xem xét giao con chung cho ai nuôi dưỡng thì phải xuất phát từ lợi ích mọi mặt của trẻ, để phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Mặt khác, trẻ N hiện đang sinh sống cùng bà D. Do đó để tránh sự xáo trộn về tâm lý cũng như nơi ở của trẻ, căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà D.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà D khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu ông M có chứng cứ cho rằng hai bên có tài sản chung và nợ chung thì được giải quyết bằng vụ án khác khi các bên có yêu cầu.

[4]Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000đồng bà D chịu nhưng được trừ vào số tiền bà D đã tạm nộp án phí .

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm b khoản 1 Điều 35;điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147;Điều 227; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự ;

- Điều 56, 81, 82, 83, 84, 116, 117 Luật Hôn nhân và gia đình

-Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Mỹ D được ly hôn với ông Tsằn A M. Quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông M theo Giấy chứng nhận kết hôn số 64/2016 do Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre cấp ngày 30/12/2016, chấm dứt kể từ ngày Bản án ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Về quan hệ con chung: Giao con chung là trẻ Tsằn Mỹ N sinh ngày 24/10/2016 cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông M do bà D chưa có yêu cầu.

Ông M có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở.

Bà D cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông M trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Trong trường hợp ông M lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà D có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông M.

Trong trường hợp bà D không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì trên cơ sở lợi ích của con, ông M hoặc người thân thích, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà D khai không có .

2. Án phí dân sự sơ thẩm: 300.000đồng bà Nguyễn Thị Mỹ D chịu được trừ vào số tiền 300.000đồng mà bà D đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0071711 ngày 04/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Phú.

Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 56/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:56/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về