Bản án về tranh chấp ly hôn số 470/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 470/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 6 năm 2022 tại phòng xử án Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 05/2022/TLST-HNGĐ ngày 05/01/2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/5/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1978 Thường trú: Đường T, Phường M, Quận P, TP H (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Đào Huy H, sinh năm 1970 Thường trú: Đường T, Phường M, Quận P, TP H (vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn nộp ngày 28/12/2022 và các lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà Nguyễn Thị T và ông Đào Huy H tự nguyện kết hôn năm 2001, đăng ký kết hôn theo Giấy Chứng nhận kết hôn do Uỷ ban nhân dân Phường 13, quận Phú Nhuận cấp số 68, quyển số 01/2001 ngày 11/10/2001. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại địa chỉ Đường T, Phường M, Quận P, TP H cùng gia đình chồng.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, không có tiếng nói chung về mọi mặt. Ông H không chia sẻ, giúp đỡ vợ các công việc trong gia đình cho đến việc nuôi dạy con cái.

Kể từ năm 2016 cho đến nay mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm nhạt dần. Nay nhận thấy cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông H.

Về con chung: Bà T và ông H có 02 con chung tên Đào Trọng N, sinh ngày 27/9/2002 và Đào Trọng N V, sinh ngày 30/8/2005. Trẻ Đào Trọng N đã trưởng thành.

Tại đơn ly hôn, sau khi ly hôn bà T đồng ý để ông H trực tiếp nuôi dưỡng trẻ V cho đến khi đủ 18 tuổi và cấp dưỡng nuôi con là 3.000.000 đồng/tháng.

Tại phiên tòa, bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với ông H và không bổ sung chứng cứ nào khác. Tuy nhiên bà T thay đổi yêu cầu về việc nuôi dưỡng con chung: bà T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng trẻ V cho đến khi đủ 18 tuổi và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Đào Huy H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ triệu tập để lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm nhưng ông H vắng mặt không có lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như Hội đồng xét xử sơ thẩm đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T yêu cầu ly hôn với ông Đào Huy H là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án, xét xử trong trường hợp bị đơn vắng mặt tại phiên tòa:

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận.

Theo kết quả xác minh của Công an Phường 13, quận Phú Nhuận, ông Đào Huy H có hộ khẩu thường trú và hiện đang cư trú tại số Đường T, Phường M, Quận P, TP H. Ông H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ để lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất ngày 01/6/2022 và phiên tòa sơ thẩm hôm nay nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng quyết định xét xử vắng mặt ông H.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Bà T và ông H tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo Giấy Chứng nhận kết hôn do Uỷ ban nhân dân Phường 13, quận Phú Nhuận cấp số 68, quyển số 01/2001 ngày 11/10/2001 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn, không cùng quan điểm sống, không hạnh phúc. Tại phiên tòa bà T xác nhận không còn tình cảm với ông H, đời sống chung không thể kéo dài và có nguyện vọng ly hôn.

Ông H lại vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc lấy lời khai, các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa sơ thẩm. Ông H cũng không có ý kiến gì về yêu cầu ly hôn của bà T và cũng không cung cấp bất kỳ chứng cứ nào. Điều này cho thấy ông H thờ ơ, không quan tâm việc duy trì quan hệ hôn nhân với bà T. Nếu tiếp tục cuộc sống chung thì mục đích hôn nhân cũng không đạt được.

Căn cứ vào các Điều 19, Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét thấy yêu cầu ly hôn của bà T cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung:

Bà T và ông H có 02 con chung tên Đào Trọng N, sinh ngày 27/9/2002 và Đào Trọng N V, sinh ngày 30/8/2005. Trẻ Đào Trọng N đã trưởng thành.

Tại phiên tòa bà T trình bày khi nộp đơn xin ly hôn, bà T cho rằng trẻ V là con trai, ở với cha sẽ thuận tiện hơn. Nên bà đồng ý giao trẻ V cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và bà T sẽ cấp dưỡng nuôi con là 3.000.000 đồng/tháng.

Tuy nhiên thực tế bà T luôn chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ V từ khi sinh ra cho đến nay. Trẻ V cũng đã hơn 16 tuổi, tự chăm sóc bản thân, việc đi học không cần cha mẹ đưa đón. Do đó, tại phiên tòa bà T xin thay đổi yêu cầu nuôi dưỡng con chung. Bà T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ V đến khi đủ 18 tuổi. Bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy bà T có công việc ổn định, có thu nhập để chăm lo cho trẻ V. Tại bản tự khai, trẻ V cũng có mong muốn chung sống cùng bà T. Trẻ V hiện là học sinh Trường Trung học phổ thông Nguyễn Khuyến, kết quả học tập tốt. Mặt khác theo xác minh tại địa phương, cho đến nay bà T vẫn thường xuyên chăm sóc hai trẻ N và trẻ V.

Để đảm bảo cuộc sống ổn định cũng như điều kiện học tập, sinh hoạt phù hợp với lợi ích của trẻ V, căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu này của bà T.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom con chung, không ai được cản trở. Con chưa thành niên cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức đóng góp cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T tự khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình: Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bà T chịu 300.000 đồng, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0029115 ngày 04/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận. Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 19, Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014), Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T ly hôn với ông Đào Huy H.

- Về con chung: Bà T và ông H có 02 con chung tên Đào Trọng N, sinh ngày 27/9/2002 và Đào Trọng N V, sinh ngày 30/8/2005. Trẻ Đào Trọng N đã trưởng thành.

Sau khi ly hôn bà T là người trực tiếp nuôi dưỡng trẻ V cho đến khi đủ 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom con chung, không ai được cản trở. Con chưa thành niên cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức đóng góp cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

2. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T chịu 300.000 đồng, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0029115 ngày 04/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận.

Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bà Nguyễn Thị T được quyền kháng cáo. Ông Đào Huy H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 470/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:470/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về