Bản án về tranh chấp ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 221/2021/TLST - HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST -HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2022/QĐ-HPT; ngày 28/3/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trương Thị Thúy K, sinh năm 1996 (có mặt).

Địa chỉ: ấp H, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang.

Bị đơn: Anh Huỳnh Văn B, sinh năm 1998 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp H, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn chị Trương Thị Thúy K trình bày như sau:

Về hôn nhân: Năm 2018, chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B tự tìm hiểu yêu thương nhau, tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2020 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số XX ngày 13/01/2020. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc và sinh được 01 con chung là cháu Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 26/3/2020. Tuy nhiên, thời gian sau này vợ chồng thường hay cự cãi do bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, nguyên do là anh Bình tính tình gia trưởng không tôn trọng quan điểm ý kiến của chị Kiều về mọi khía cạnh cuộc sống. Kể từ tháng 03 năm 2021 chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B sống ly thân, kể từ khi ly thân cuộc sống của ai người đó tự lo không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa. Nay tự nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung vợ chồng không thể kéo dài nên chị Trương Thị Thúy K yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Huỳnh Văn B.

Về con chung: Chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B có 01 con chung là cháu Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 26/3/2020, hiện đang do chị Trương Thị Thúy K trực tiếp nuôi dưỡng, ly hôn chị Kiều yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung cho đến tuổi trưởng thành, chị có đủ điều kiện để nuôi con nên không yêu cầu anh Huỳnh Văn B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Trương Thị Thúy K xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị Trương Thị Thúy K xác định xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt báo thụ lý vụ án số 221/2021/TB- TLVA, ngày 29/6/2021; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải số 189/2021/TB-TA, ngày 01/12/2021; Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 58/TB- TA, ngày 20/12/2021 thông qua cha mẹ anh Bình (ông Huỳnh Văn B1(cha dượng) và bà Nguyễn Thị Q). Quá trình tố tụng anh Huỳnh Văn B không có bản khai trình bày ý kiến cũng như không đến Tòa án làm việc nên không có lời khai.

* Tại phiên tòa, kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòn Đất , tỉnh Kiên Giang phát biểu ý kiến về tuân theo pháp luật tố tụng và nội dung vụ án như sau:

Về tuân theo pháp luật tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đúng và đầy đủ các quy định về thủ tục tố tụng được quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn được Tòa án tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng nhưng vắng mặt không tham gia tố tụng là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Về nội dung vụ án: Căn cứ các tài liệu thu thập có trong hồ sơ và diễn biến công khai tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về hôn nhân: Chị Trương Thị Thúy K được ly hôn với anh Huỳnh Văn B.

Về con chung: Chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B có 01 người con chung là cháu Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 26/3/2020, hiện nay đang do chị Kiều trực tiếp nuôi dưỡng, ly hôn chị Kiều yêu cầu được tiếp tục nuôi con cho đến tuổi trưởng thành, cháu Khang dưới 36 tháng tuổi do đó yêu cầu được nuôi con của chị Kiều là có cơ sở chấp nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Trương Thị Thúy K xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Bình vắng mặt không có lời khai nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị Trương Thị Thúy K phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn chị Trương Thị Thúy K yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Huỳnh Văn B, bị đơn có nơi cư trú tại huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Xét thấy đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Huỳnh Văn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố dụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Vào năm năm 2018, chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B tự tìm hiểu yêu thương nhau, tự nguyện đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Hiệp Sơn và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 04 ngày 13/01/2020, nên hôn nhân giữa chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Khoảng đầu năm 2021, chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B phát sinh mâu thuẫn do không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống nên đã sống ly thân. Tòa án đã tổ chức phiên hòa giải để chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B đoàn tụ nhằm xây dựng hạnh phúc gia đình, tuy nhiên anh Huỳnh Văn B vắng mặt điều đó chứng tỏ anh B không muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình. Tại biên bản xác minh ngày 11/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất được ban lãnh đạo ấp H, xã M xác nhận vợ chồng chị K, anh B hiện sống ly thân.

Tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sng chung với nhau... Hội đồng xét xử xét thấy , thời gian ly thân giữa chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu xin ly hôn của chị Trương Thị Thúy K là có cơ sở chấp nhận. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B.

[3.2] Về quan hệ con chung: Chị Trương Thị Thúy K và anh Huỳnh Văn B có 01 con chung là cháu Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 26/3/2020 hiện đang do chị Trương Thị Thúy K trực tiếp nuôi dưỡng , ly hôn Kiều yêu cầu được tiếp tục được nuôi con, nhận thấy chị Trương Thị Thúy K có thu nhập ổn định, cháu Khang dưới 36 tháng tuổi do đó yêu cầu nuôi con của chị K được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Trương Thị Thúy K xác định đủ điều kiện để nuôi con nên không yêu cầu anh Huỳnh Văn B cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Trương Thị Thúy K xác định không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3.4] Về án phí hôn nhân và gia đình : Chị Trương Thị Thúy K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Các Điều 147; 227; 228; 266; 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81,82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Thúy K.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Thúy K được ly hôn với anh Huỳnh Văn B.

2. Về quan hệ con chung: Giao cháu Huỳnh Văn Kh, sinh ngày 26/3/2020 cho chị Trương Thị Thúy K tiếp tục nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) Anh Huỳnh Văn B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, trường hợp lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Trương Thị Thúy K xác định đủ điều kiện để nuôi con chung nên không yêu cầu anh Huỳnh Văn B cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung : Chị Trương Thị Thúy K xác định không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Trương Thị Thúy K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003153 ngày 15/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Như vậy chị Trương Thị Thúy K đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo: Báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án , bị đơn anh Huỳnh Văn B vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về