TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 299/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 21 tháng 11 năm 2019 tại Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 603/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 313/2019/QĐXX-ST ngày 24/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 409/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05/11/2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1973.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh V, sinh năm 1969.
Cùng địa chỉ thường trú: K2/16, ấp T, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
(Các đương sự vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn bà Nguyễn Thị N trình bày:
Bà và ông Nguyễn Thanh V chung sống vào năm 1993, đến năm 2005, ông bà đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, quận T, Thành phố H, giấy chứng nhận kết hôn số 146, ngày 02/12/2005. Quá trình vợ chồng chung sống, ông V thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn, đánh đập bà. Lúc trước vì con còn nhỏ nên bà cố gắng chịu đựng để nuôi con khôn lớn, mong muốn cho con có đủ cả ba lẫn mẹ. Sau nhiều năm chung sống, ông V không thay đổi mà tình trạng mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, ngoài bạo hành về thân thể, ông V còn dùng những từ ngữ xúc phạm, chửi bới bà rất nặng nề làm cho bà bị tổn thương rất nhiều.
Nay con cái đã lớn và hiểu chuyện, bà không muốn vì mâu thuẫn giữa ba mẹ mà làm ảnh hưởng đến cuộc sống cũng như sinh hoạt của con. Bà và ông V đã ly thân đến nay được 3 năm. Ông bà mặc dù chung địa chỉ thường trú nhưng thực tế không ăn chung, không ngủ chung, không sinh hoạt sinh lý, đi đâu làm gì không ai quan tâm ai, mạnh ai nấy sống, một mình bà lo cho con cái và gia đình, ông V không phụ giúp kinh tế cho bà.
Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà xin ly hôn với ông V để trả tự do cho nhau.
- Về con chung: Bà và ông V có 01 con chung tên Nguyễn Thanh H, sinh ngày 12/10/1996. Cháu H đã thành niên và có khả năng lao động nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết;
- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bận công việc nên bà N đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
Bị đơn ông Nguyễn Thanh V đã được Tòa án xác minh địa chỉ cư trú tại Công an phường B, thành phố B ngày 18/10/2019, theo nội dung văn bản xác minh thì ông V có đăng ký thường trú và hiện đang sinh sống tại địa chỉ: K2/16, ấp T, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho ông V theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, ông V vẫn vắng mặt nên không có lời trình bày.
Ngoài các chứng cứ các đương sự đã cung cấp từ khi thụ lý đến tại phiên tòa hôm nay, đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:
+ Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.
+ Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, việc chấp hành pháp luật của bị đơn là không đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị N đối với ông Nguyễn Thanh V: về quan hệ hôn nhân cho bà N được ly hôn với ông V; về con chung đã trưởng thành, có khả năng lao động nên không xem xét, giải quyết; về nợ chung: Do bà N khai không có nên đề nghị không xem xét; về tài sản chung: bà N khai tự thỏa thuận nên đề nghị không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tư cách tố tụng và quan hệ tranh chấp Bà Nguyễn Thị N khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Thanh V. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định bà N là nguyên đơn, ông V là bị đơn. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn”.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Ông Nguyễn Thanh V có địa chỉ thường trú và cư trú tại phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. C ăn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xác định yêu cầu khởi kiện của bà N thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
[3] Về thủ tục tố tụng khác: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt. Đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh V, Tòa án xác minh địa chỉ cư trú của ông V tại Công an phường B, thành phố B, theo nội dung văn bản xác minh thì ông V có đăng ký thường trú và hiện đang sinh sống tại địa chỉ: K2/16, ấp T, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông V theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (anh Nguyễn Thanh H con ông V trực tiếp ký nhận và cam kết giao lại cho ông V, có xác nhận của chính quyền địa phương). Tuy nhiên, ông V vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bà N, ông V theo quy định của pháp luật.
[4]. Về nội dung tranh chấp [4.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Thanh V chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường T, quận T, Thành phố H cấp giấy chứng nhận kết hôn số 146, ngày 02/12/2005. Theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định hôn nhân của bà N và ông V là hợp pháp.
Xét thấy, bà N xác định vợ chồng thường xuyên cãi vã, dẫn đến xung đột và không tôn trọng lẫn nhau. Mặc dù có cùng địa chỉ thường trú nhưng vợ chồng không ăn chung, không ngủ chung, không sinh hoạt sinh lý, đi đâu làm gì không ai quan tâm ai, mạnh ai nấy sống, một mình bà N lo cho con cái và gia đình, ông V không phụ giúp kinh tế cho bà N. Đến thời điểm bà N khởi kiện, vợ chồng đã ly thân được 3 năm.
Theo biên bản xác minh mâu thuẫn tại địa phương ngày 18/10/2019, nơi bà N và ông V sinh sống xác định trong cuộc sống hôn nhân của bà N, ông V có xảy ra mâu thuẫn hay không thì địa phương không nắm được vì các đương sự không trình báo với địa phương, không yêu cầu địa phương can thiệp, hòa giải.
Đối với ông V, theo kết quả xác minh tại Công an phường B ngày 18/10/2019, xác định hiện nay ông V vẫn cư trú tại địa phương, Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông V vẫn vắng mặt tại các buổi làm việc, hòa giải và phiên tòa là không thực hiện đúng nghĩa vụ của bị đơn, từ đó cho thấy ông V có ý bỏ mặc việc Tòa án giải quyết quan hệ hôn nhân của hai người, không có ý định hòa giải, đoàn tụ. Như vậy, cuộc sống hôn nhân của bà N và ông V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ những phân tích trên cho thấy, yêu cầu ly hôn của bà N là có cơ sở chấp nhận.
[4.2] Về con chung: Bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Thanh V có 01 con chung tên Nguyễn Thanh H, sinh ngày 12/10/1996. Cháu H đã thành niên và có khả năng lao động, bà N không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[4.3] Về tài sản chung: Bà N đề nghị tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
[4.4] Về nợ chung: Bà N xác định không có, không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
[5] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[6] Về án phí: Nguyên đơn Bà Nguyễn Thị N phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39, 68, Khoản 4 Điều 147, 220, 228, 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; các Điều 51, 56, 57, 59, 60 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị N đối với ông Nguyễn Thanh V về việc “Ly hôn”.
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị N được ly hôn ông Nguyễn Thanh V.
- Về con chung: Bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Thanh V có 01 con chung tên Nguyễn Thanh H, sinh ngày 12/10/1996. Cháu H đã thành niên và có khả năng lao động nên không xem xét, giải quyết.
- Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị N đề nghị tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết.
- Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị N khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết 2. Về án phí:
Bà Nguyễn Thị N phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí bà N đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004364 ngày 18 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; bà N đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 299/2019/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 299/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về