TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 183/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 412/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 339/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Duy K, sinh năm 1989 (vắng mặt).
Địa chỉ: 28/11A đường P, Phường Y, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Bà Le Ngo Xuan D (Lê Ngô Xuân D), sinh năm 1992 (vắng mặt).
Quốc tịch: Việt Nam.
Địa chỉ: SW Lynnwood Washington 98087, USA.
Các đương sự đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 16/10/2020 và những lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Nguyễn Duy K trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Le Ngo Xuan D (Lê Ngô Xuân D) kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 105/2017 ngày 24/10/2017. Sau khi kết hôn, bà D quay trở về Hoa Kỳ sinh sống và làm việc, còn ông vẫn ở lại Việt Nam. Kể từ đó, do xa cách địa lý nên hai bên không có điều kiện quan tâm, chăm sóc cho nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng dần phai nhạt, phát sinh nhiều mâu thuẫn. Mặc dù, ông và bà D đã nhiều lần cố gắng hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Ông xác nhận hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà D để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Không có.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có.
Vì bận việc, ông yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.
Tại bản khai ngày 10/12/2020 (được hợp pháp hóa lãnh sự ngày 15/12/2020 tại Lãnh sự quán Việt Nam tại New York, Hoa Kỳ), bị đơn là bà Le Ngo Xuan D (Lê Ngô Xuân D) xác nhận lời trình bày của ông K về thời điểm kết hôn, về mâu thuẫn chung của vợ chồng, về con chung, tài sản chung, nợ chung là đúng. Nay ông K xin ly hôn, bà đồng ý được ly hôn với ông K. Do bận việc, bà yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Xét yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy ông Nguyễn Duy K và bà Le Ngo Xuan D (Lê Ngô Xuân D) kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Bị đơn hiện cư trú tại Hoa Kỳ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án:
Nguyên đơn và bị đơn có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[3] Xét yêu cầu của ông Nguyễn Duy K được ly hôn bà Le Ngo Xuan D (Lê Ngô Xuân D), Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của ông K và bà D, thì thực tế sau khi kết hôn hai bên phát sinh mâu thuẫn không thể giải quyết được. Từ khi kết hôn cho đến nay, ông K và bà D không có quá trình chung sống lâu dài, do xa cách địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, hai bên chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng. Hiện nay ông K và bà D đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, ông K yêu cầu được ly hôn với bà D là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về con chung: Không có.
[5] Về tài sản chung, nợ chung và nghĩa vụ dân sự chung: Không có.
[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, ông Nguyễn Duy K chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 121 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Duy K.
1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Duy K được ly hôn với bà Le Ngo Xuan D (Lê Ngô Xuân D).
Giấy chứng nhận kết hôn số 105/2017 do Ủy ban nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/10/2017 cho ông Nguyễn Duy K và bà Le Ngo Xuan D (Lê Ngô Xuân D) không còn giá trị pháp lý.
1.2. Về con chung: Không có.
1.3. Về tài sản chung, nợ chung và nghĩa vụ dân sự chung: Không có.
2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, ông Nguyễn Duy K chịu và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà ông K đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2019/0093079 ngày 24/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Duy K đã nộp đủ tiền án phí.
3. Ông Nguyễn Duy K được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Bà Le Ngo Xuan D (Lê Ngô Xuân D) được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
Bản án về tranh chấp ly hôn số 183/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 183/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về