Bản án về tranh chấp ly hôn số 166/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 166/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/10/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 376/2021/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 163/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 29 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1962.

Địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện Đ, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Bà Trần Thị B, sinh năm 1959.

Địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện Đ, tỉnh Long An.

(Ông H có mặt, bà B vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 13/4/2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là Ông Nguyễn Văn H trình bày: ông và bà Trần Thị B cưới nhau từ năm 1986, không đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2016 vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm sống, cải vã, không tìm được tiếng nói chung, chung sống không hạnh phúc. Ông và bà B đã ly thân từ năm 2016 đến nay. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn, nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Trần Thị B.

Về nuôi con chung: Trong quá trình chung sống, ông và bà B có 02 người con chung tên Nguyễn Thị C, sinh ngày 06/12/1986 và Nguyễn Trung D, sinh ngày 07/10/1992. Khi ly hôn, các con chung đã trưởng thành nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản: Ông H xác định ông và bà B tự thỏa thuận tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông H xác định ông và bà B không có nợ ai.

Tại bản tự khai ngày 04/5/2021 và ngày 28/5/2021, quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Trần Thị B trình bày: Bà thống nhất với Ông H về thời gian kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng, thời gian ly thân. Nay bà đồng ý ly hôn với Ông Nguyễn Văn H.

Về nuôi con chung: Bà B xác định giữa bà và Ông H có 02 con chung tên Nguyễn Thị C, sinh ngày 06/12/1986 và Nguyễn Trung D, sinh ngày 07/10/1992. Hiện con chung đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà B xác định giữa bà và Ông H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà B xác định bà và Ông H không có nợ ai.

Do tuổi đã cao đi lại khó khăn nên bà xin vắng mặt các phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và xin xét xử vắng mặt.

Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt. Nguyên đơn có mặt vẫn giữ nguyên ý kiến trình bày. Vụ án đã được Tòa án tiến hành công khai chứng cứ theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Văn H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bà Trần Thị B. Bà B hiện đang cư trú tại xã L, huyện Đ, tỉnh Long An. Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn H có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án, nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

[3] Bị đơn là bà Trần Thị B có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vụ án vắng mặt là phù hợp với quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự nên được chấp nhận.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ông Nguyễn Văn H:

[4.1] Về hôn nhân: Xét thấy, Ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị B chung sống với nhau vào năm 1986, không đăng ký kết hôn, Ông H và bà B chung sống với nhau trước ngày 03/01/1987 là ngày Luật hôn nhân gia đình năm 1986 có hiệu lực nên được xem là hôn nhân thực tế theo quy định tại Điều 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ - QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình. Trong quá trình chung sống, Ông H và bà B phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn nên Ồng H xin ly hôn bà B, bà B đồng ý ly hôn.

[4.2] Về nuôi con chung: Ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị B thống nhất, con chung đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4.3] Về chia tài sản chung: Ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị B xác định tự thỏa thuận tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết. Nếu sau này, các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[4.4] Về nợ chung: Ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị B xác định không có nợ chung, Tòa án không đề cập giải quyết, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

[5] Về án phí: Buộc Ông Nguyễn Văn H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đồng theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc Hội về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H.

1. Về hôn nhân: Ông Nguyễn Văn H được ly hôn với bà Trần Thị B.

2. Về nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét giải quyết.

3. Về chia tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Buộc Ông Nguyễn Văn H phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nộp ngân sách Nhà Nước, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà Ông H đã nộp là 300.000đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007921 ngày 13/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Ông H đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Bà B không phải chịu án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày được Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 166/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:166/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về