TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BÁN ÁN 148/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 703/2021/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2021 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 232/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 257/2021/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Bích T, sinh năm 1975. Địa chỉ: 990/5, khóm Bình Đ 2, phường Bình Đ, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (bà T có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 18/5/2021).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1971. Địa chỉ: 10/2A, khóm An T, phường Mỹ T, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/9/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Lê Thị Bích T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông K do quen biết trước cả hai đã tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 1997, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Mỹ Thới, thành phố Long Xuyên ngày 16/12/1997, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn: Do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, mâu thuẫn trong vấn đề kinh tế gia đình và vợ chồng đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Lê Thị Bích T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Văn K.
Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Lê N, sinh ngày 25/11/1996 và Nguyễn Vĩ K, sinh ngày 27/03/2002. Hiện các con đã trưởng thành và có đủ khả năng lao động.
Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn ông Nguyễn Văn K vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn bà Lê Thị Bích T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 18/5/2021. Bị đơn ông Nguyễn Văn K vắng mặt tại phiên tòa.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về nội dung:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng đét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tranh chấp giữa bà T với ông K là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ông Nguyễn Văn K có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường Mỹ Thới, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nên bà T khởi kiện xin ly hôn với ông K thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Nguyên đơn bà Lê Thị Bích T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Nguyễn Văn K mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa bà Lê Thị Bích T với ông Nguyễn Văn K là hôn nhân tự nguyện, ông bà có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ Thới, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang ngày 16/12/1997 là phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đây là hôn nhân hợp pháp nên được công nhận. Trong quá trình chung sống, bà T cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường hay cự cãi, bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau và vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2008 cho đến nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông K Sau khi xem xét ý kiến của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng bà T, ông K có những mâu thuẫn không thể hàn gắn được, thể hiện qua việc vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2008 cho đến nay, trong thời gian này cả hai chỉ lo cho cuộc sống cá nhân không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông K biết về việc bà T xin ly hôn nhưng ông K không tham dự phiên tòa cũng như trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của bà T, điều này thể hiện ông K không có ý muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, việc bà T xin ly hôn với ông K là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.
[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Lê N, sinh ngày 25/11/1996 và Nguyễn Vĩ K, sinh ngày 27/03/2002. Hiện các con đã trưởng thành và có đủ khả năng lao động nên không xét đến.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T trình bày là không có, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đến.
[6] Về án phí: Bà Lê Thị Bích phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 8; Điều 9; Điều 51; Điều 53; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Lê Thị Bích T và ông Nguyễn Văn K.
[2] Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Lê N, sinh ngày 25/11/1996 và Nguyễn Vĩ K, sinh ngày 27/03/2002. Hiện các con đã trưởng thành và có đủ khả năng lao động.
[3] Về tài sản chung và nợ chung: Chưa giải quyết.
[4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Lê Thị Bích T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà T đã nộp theo biên lai thu số 0007713 ngày 02/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên. Bà T đã nộp xong án phí.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hàn h án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 148/2020/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 148/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về