Bản án về tranh chấp ly hôn số 145/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 145/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 211/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 94/2022/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1991 (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Bị đơn: Ông Võ Ngọc Tr, sinh năm 1993 (Vắng mặt). Địa chỉ: Ấp 4, xã Đ, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Tạm trú: Ấp B, xã T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 03 tháng 3 năm 2022 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn bà Nguyễn Thị M trình bày: Bà và ông Võ Ngọc Tr chung sống với nhau vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân.

Nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên bà xin ly hôn với ông Võ Ngọc Tr.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông bà có một con chung tên Võ Ngọc N, sinh ngày 08/5/2019. Con hiện đang sống chung với bà. Khi ly hôn, bà xin được quyền nuôi con, yêu cầu ông Tr cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, bà Nguyễn Thị M có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng ông Võ Ngọc Tr vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị M khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông ông Võ Ngọc Tr, ông Tr hiện thường trú tại ấp 4, xã Đ, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp nhưng đang tạm trú và có mặt tại ấp B, xã T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (được Công an xã T xác nhận) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị M xin vắng mặt; bị đơn ông Võ Ngọc Tr đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị M và ông Võ Ngọc Tr chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Thấy rằng, trong quá trình chung sống, bà M cho rằng do cuộc sống vợ chồng không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Mâu thuẫn giữa ông bà cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Đối với ông Võ Ngọc Tr, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của bà M nhưng ông Tr không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà M. Tại phiên tòa, ông Tr vẫn vắng mặt, chứng tỏ không có thiện chí để hàn gắn, trong khi vợ chồng mâu thuẫn từ năm 2019 cho đến nay. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung vợ chồng của ông bà không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của bà M và ông Tr là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Bà M trình bày bà và ông Tr chung sống có một con chung tên Võ Ngọc N, sinh ngày 08/5/2019. Khi ly hôn, bà M yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung, yêu cầu ông Tr cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Đối với ông Tr, dù đã được thông báo về yêu cầu của bà M đối với con chung nhưng ông Tr vẫn không đến Tòa án, cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án.

Xét thấy, từ khi bà M và ông Tr xa nhau đến nay, bà M là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung N, bà vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của con chung. Ngoài ra, con chung N là con gái, cần có sự chăm sóc, gần gũi của người mẹ hơn. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần tiếp tục giao con chung cho bà M nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà M yêu cầu ông Tr cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Xét thấy, ông Tr nhận được thông báo về yêu cầu của bà M về vấn đề cấp dưỡng nhưng ông Tr vẫn không đến Tòa án, cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án. Tuy nhiên, cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con được quy định tại Điều 110 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 và mức cấp dưỡng nuôi con được quy định tại Điều 116 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, nên cần buộc ông Tr có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung N với số tiền là 1.000.000đồng/tháng, thời gian bắt đầu từ tháng 6 năm 2022 đến khi con chung N đủ 18 tuổi.

[5]. Về tài sản chung: Bà M trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; ông Tr không có văn bản phản hồi ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Bà M trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; ông Tr không có văn bản phản hồi ý kiến về nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, ông Võ Ngọc Tr phải chịu án phí về cấp dưỡng nuôi con chung theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, 273, 483, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, 5, 81, 82, 83, và 84, 110, 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M đối với ông Võ Ngọc Tr về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị M được ly hôn với ông Võ Ngọc Tr.

- Về con chung: Bà Nguyễn Thị M được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Võ Ngọc N, sinh ngày 08/5/2019. Ông Võ Ngọc Tr có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng, thời gian cấp dưỡng nuôi con từ tháng 6 năm 2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị M chịu 300.000đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ nhà nước. Bà M được khấu trừ 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0009836 ngày 03/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành. Bà M không phải nộp tiếp án phí.

Ông Võ Ngọc Tr chịu 300.000đồng án phí nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án để xin xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 145/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:145/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về