Bản án về tranh chấp ly hôn số 142/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 142/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 299/2021/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 286/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05/11/2021 giữa:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1987 Địa chỉ: thôn 7, xã K, huyện K1, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị đơn: Võ Văn T, sinh năm 1989 Địa chỉ: tổ 11, ấp 2, xã B, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai (Đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh Võ Văn T kết hôn với nhau vào năm 2012 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện K1, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận kết hôn số 59 ngày 22/11/2011.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm sống và cải lộn với nhau, hai người đã sống ly thân hơn 1 năm nay. Nay tôi nhận thấy không còn tình cảm với anh Thanh, quan hệ hôn nhân của hai vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy tôi yêu cầu Toà án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Thanh.

Về con chung: Tôi và anh Thanh có 01 con chung là Võ Kiều K2 – sinh ngày 02/9/2012; con chung hiện đang do tôi trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ly hôn tôi yêu cầu được nuôi dưỡng nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Thanh cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

- Bị đơn ông Võ Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đến làm việc, tham gia phiên họp công khai chứng cứ, phiên hòa giải, phiên tòa nhưng ông T đều vắng mặt nên không có lời khai.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị C.

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị C được ly hôn với ông Võ Văn T.

+ Về con chung: Giao con chung Võ Kiều K2 – sinh ngày 02/9/2012 cho bà Nguyễn Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục sau ly hôn.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm thời ông Võ Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

+ Về án phí: Bà C phải chịu án phí ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị C có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Võ Văn T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà C và ông T.

[2] Về quan hệ pháp luật: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn” quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị C và ông Võ Văn T tự nguyện kết hôn, được UBND xã K, huyện K1, tỉnh Đắk Lắk cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 59 ngày 22/11/2011. Căn cứ Điều 9, Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, xác định hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị C và ông Võ Văn T là hôn nhân hợp pháp.

Nguyên đơn bà Thanh khởi kiện yêu cầu ly hôn với lý do tình trạng hôn nhân giữa bà và ông T là trầm trọng, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn rất nghiêm trọng trong cuộc sống; hai người đã sống ly thân. Bà Thanh xác định không còn tình cảm với ông T và yêu cầu xin ly hôn với ông T.

Tòa án đã xác minh tại địa phương (xã B, huyện Long Thành) về việc cư trú của ông T và tình trạng hôn nhân của bà C, ông T, kết quả như sau: Ông Võ Văn T hiện đang cư trú tại tổ 11, ấp 2, xã B, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Ông T làm việc giờ hành chính sáng đi làm đến chiều về nhà. Về mâu thuẫn vợ chồng bà C, ông T thì địa phương không rõ. Tuy nhiên hiện này bà C và ông T không còn chung sống với nhau.

Bị đơn ông Võ Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đến làm việc, tham gia phiên họp công khai chứng cứ, phiên hòa giải, phiên tòa nhưng ông T đều vắng mặt, cũng không có ý kiến phản hồi về các nội dung theo đơn khởi kiện của nguyên đơn. Điều này cho thấy ông T không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân với bà C nữa, không có thiện chí hòa giải để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ với nhau. Do ông T không đến tham gia tố tụng tại Tòa án, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; căn cứ khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án giải quyết vụ án theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Theo tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án xác định tình trạng hôn nhân giữa bà C và ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C về việc xin ly hôn với ông Võ Văn T.

[3.2] Về con chung:

Bà C và ông T có 01 con chung là Võ Kiều K2 – sinh ngày 02/9/2012, hiện nay con chung đang do bà C nuôi dưỡng. Theo lời khai của bà C và xác nhận của chính quyền địa phương thì hiện nay bà C đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung, cháu Khánh hiện đang học tại trường tiểu học Lê Hồng Phong, thị trấn Krông Kmar, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk. Cháu Võ Kiều K2 có nguyện vọng được sống với bà C.

Ông Võ Văn T không đến Tòa án tham gia tố tụng; không có ý kiến, yêu cầu gì về con chung, từ đó cho thấy ông T không có thiện chí hòa giải về vấn đề chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không có nguyện vọng nuôi con chung. Do vậy có cơ sở nào để giao con chung cho bà C nuôi dưỡng.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét quyết định giao cháu Võ Kiều K2 cho bà C tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà C không yêu cầu, nên tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà C xác định không có tài sản chung và nợ chung. Mặt khác do chưa có lời khai của ông Võ Văn T, nên không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Bà Nguyễn Thị C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp hôn nhân gia đình theo quy định.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 91, 147, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 9, Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị C được ly hôn với ông Võ Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung Võ Kiều K2 – sinh ngày 02/9/2012 cho bà Nguyễn Thị C trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Võ Văn T có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Tạm thời ông Võ Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Vì quyền lợi của con chung chưa thành niên, các bên được quyền thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Bà Ngyễn Thị C phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp hôn nhân gia đình. Số tiền 300.000đ tạm ứng án phí bà C đã nộp, theo Biên lai thu số 0005149 ngày 14/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành được trừ vào tiền án phí bà C phải chịu. Bà C đã nộp xong.

5. Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 142/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:142/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về