Bản án về tranh chấp ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦ THỪA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 25 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 225/2021/TLST – HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03A/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Bà A, sinh năm 1993. (có đơn xin vắng) Địa chỉ: Ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Long An.

2.Bị đơn: Ông B, sinh năm 1993. (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: bà và ông B tự nguyện tìm hiểu rồi đi đến hôn nhân và được Ủy ban nhân dân xã N, huyện P, tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 23/4/2015. Sau khi kết hôn, thời gian đầu chung sống hạnh phúc, về sau phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là từ năm 2019, ông B không lo làm ăn để lo con cái gia đình, lại thường xuyên cờ bạc gây ra nợ nần ngày càng nhiều, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, bà đã khuyên ông B nhiều lần nhưng ông B không thay đổi. Hiện nay, bà và ông B đã ly thân, không còn sống chung. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, bà A yêu cầu ly hôn với ông B.

Về con chung: có 02 con chung tên C sinh ngày 01/7/2012 và D sinh ngày 21/02/2014. Hiện con chung đang ở cùng bà, bà yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà A không yêu cầu Tòa giải quyết.

Bị đơn ông B vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng nên không có bản tự khai. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án có tiến hành thủ tục niêm yết thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông B biết Tòa án có thụ lý vụ án ly hôn theo đơn khởi kiện của bà A nhưng ông B không có ý kiến bằng văn bản gửi đến Tòa án về việc bà A xin ly hôn.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An phát biểu quan điểm: Từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật theo quy định pháp luật. Riêng ông B chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của ông theo thủ tục tố tụng, tuy nhiên việc xét xử vắng mặt ông B không ảnh hưởng đến kết quả xét xử. Về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân, ông B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông B không đến Tòa án để giải quyết vụ án cũng không có ý kiến. Xét tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng nên bà A yêu cầu ly hôn là có cơ sở. Về con chung: bà A và ông B có có 02 con chung tên C sinh ngày 01/7/2012 và D sinh ngày 21/02/2014, hiện con chung đang ở cùng bà A, bà A có yêu cầu nuôi con chung, ông B không có ý kiến nên tiếp tục giao con chung cho bà A nuôi dưỡng, bà A không yêu cầu cấp dưỡng nên ông B không phải cấp dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung, bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bà A kết hôn với nhau và được Ủy ban nhân dân xã N, huyện P, tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 23/4/2015. Nay bà A khởi kiện xin ly hôn làm phát sinh quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Do ông B hiện cư ngụ tại huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An nên khi bà A có yêu cầu xin ly hôn thì Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An giải quyết theo trình tự sơ thẩm quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng không tiến hành hoà giải được do vắng mặt đương sự. Vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

[4] Tại phiên toà, ông B là bị đơn vắng mặt. Theo kết quả xác minh của Công an xã N, huyện P, tỉnh Long An thì ông B có đăng ký hộ khẩu tại địa chỉ: ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Long An, hiện đang sinh sống tại địa phương. Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai tại nơi cư trú cho ông B các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định pháp luật như Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy báo phiên tòa nhưng ông B vẫn không đến Tòa án tham gia tố tụng. Do đó, việc Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An đưa ra xét xử vắng mặt ông B là phù hợp với Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[5] Tại phiên tòa hôm nay, bà A có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Xét yêu cầu của bà A, Hội đồng xét xử thấy:

[6] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà A và ông B có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ khi có tranh chấp.

[7] Xét thấy, bà A và ông B kết hôn đã lâu, mâu thuẫn kéo dài nhiều năm, nguyên nhân mâu thuẫn theo bà A trình bày là do ông B thường xuyên cờ bạc không lo làm ăn gây nợ nần, không phụ giúp bà nuôi con, thường xuyên cãi nhau. Mặc dù ông B vắng mặt tại phiên toà và suốt quá trình tố tụng, không xác định nguyên nhân mâu thuẫn nhưng từ khi thụ lý vụ án đến nay Toà án đã tiến hành tống đạt niêm yết hợp lệ văn bản tố tụng mà ông B không đến tham gia phiên hoà giải và phiên toà để giải quyết vụ án, không thể hiện rõ ý kiến hay yêu cầu gì, thể hiện ông B không còn thiết tha quan hệ hôn nhân với bà Đào. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ tình cảm giữa bà A và ông B không còn, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, quan hệ hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài được nữa, tình cảm không thể hàn gắn, xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà A đối với ông B là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[8] Về con chung: có 02 con chung tên C sinh ngày 01/7/2012 và D sinh ngày 21/02/2014. Khi ly hôn bà A yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, ông B không lên tham gia phiên tòa, không thể hiện ý kiến về việc nuôi con chung, Đồng thời, hiện nay 02 con chung chưa thành niên đang sống chung với bà A, do đó cần giao con chung cho bà A tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo sự phát triển ổn định của con chung cũng như phù hợp với nguyện vọng của con chung là có căn cứ quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng: bà A không yêu cầu cấp dưỡng, ông B không phải cấp dưỡng nuôi con, ông B có quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung sau khi ly hôn là phù hợp theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình.

[9] Về tài sản chung và nợ chung: bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về án phí: bà A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết về án phí, lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 205; Các điều 147, 266, 267, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào điều 51, 56, 81 Luật Hôn nhân – gia đình năm 2014.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A.

Về quan hệ hôn nhân: Bà A được ly hôn với ông B.

Về con chung: có 02 con chung tên C sinh ngày 01/7/2012 và D sinh ngày 21/02/2014. Giao 02 con chung chưa thành niên tên C và D cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng, ông B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con được quyền yêu cầu hạn chế quyền thăm nom nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom làm ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc giáo dục con chung. Vì quyền lợi của con chung, các bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con chung cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: bà A không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: bà A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Khấu trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà A đã nộp theo biên lai thu số 0002097 ngày 02/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An sang thi hành án phí. Bà A không phải nộp thêm.

Án xét xử sơ thẩm công khai, vắng mặt nguyên đơn và bị đơn. Nguyên đơn, Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thủ Thừa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về