TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BÁN ÁN 139/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 30 tháng 10 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 472/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2020 về “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 332/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 337/2020/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Lộc A, sinh năm: 1982 Địa chỉ: Số 6A2, khóm Bình K x, phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Có mặt.
- Bị đơn: Bà Dương Thị Ngọc Đ, sinh năm: 1993 Địa chỉ: Số 776/39F, khóm Mỹ L, phường Mỹ P, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/7/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Nguyễn Lộc A trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh A và chị Đ do quen biết trước, cả hai đã tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Mỹ P, thành phố Long Xuyên ngày 28/7/2011, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, đến năm 2016, thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi, đời sống vợ chồng không hạnh phúc. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau và về vấn đề kinh tế nên vợ đã chồng sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên anh A yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Đ.
Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Lộc An K, sinh ngày 04/5/2010 và Nguyễn Lộc An T, sinh ngày 07/6/2013. Hiện đáng sống với chị Đ, khi ly hôn anh A đồng ý để chị Đ được nuôi con và anh không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn bà Dương Ngọc Đ vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa, không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.
Tại biên bản ghi ý kiến con chung vào ngày 07/8/2020, cháu Nguyễn Lộc An K và Nguyễn Lộc An T trình bày nguyện vọng được chung sống với mẹ nếu trường hợp ba, mẹ ly hôn.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn anh Nguyễn Lộc A vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với chị Đ. Về con chung: Anh A đồng ý để chị Đ được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung Nguyễn Lộc An K, sinh ngày 04/5/2010 và Nguyễn Lộc An T, sinh ngày 07/6/2013. Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa anh An tự nguyện cấp dưỡng hai con chung mỗi tháng là 5.000.000đ (mỗi cháu là 2.500.000đ/tháng). Việc cấp dưỡng được thực hiện kể từ ngày có quyết định của Tòa án. Về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết. Bị đơn chị Đ vắng mặt tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng đét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tranh chấp giữa anh An với chị Đ là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Chị Dương Thị Ngọc Đ có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường Mỹ P, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nên anh A khởi kiện xin ly hôn với chị Đ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Chị Dương Thị Ngọc Đ mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng chị Đ vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa anh Nguyễn Lộc A với chị Dương Thị Ngọc Đ là hôn nhân tự nguyện, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ P, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang ngày 28/7/2011 là phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đây là hôn nhân hợp pháp nên được công nhận. Trong quá trình chung sống, anh An cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường hay cự cãi, bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp nhau và vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên anh A yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Đ.
Sau khi xem xét ý kiến của của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng anh An, chị Đ có những mâu thuẫn không thể hàn gắn được, thể hiện qua việc vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay, trong thời gian này cả hai chỉ lo cho cuộc sống cá nhân không tạo điều kiền cho nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này thể hiện tình cảm vợ chồng anh An, chị Đ không thể hàn gắn được nếu tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân này sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống của cả hai. Do đó, việc anh A xin ly hôn với chị Đ là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.
[3] Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 con chung tên Nguyễn Lộc An K, sinh ngày 04/5/2010 và Nguyễn Lộc An T, sinh ngày 07/6/2013. Hiện 02 con chung đang do chị Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh A đồng ý để chị Đ tục nuôi con và cháu K, cháu T đều có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với chị Điểm. Tuy chị Đ vắng mặt tại phiên tòa nhưng qua ý kiến của anh An và nguyện vọng của hai cháu thì việc để chị Đ được tiếp nuôi con là phù hợp với khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Anh Nguyễn Lộc A không trực tiếp nuôi con chung nhưng anh A có quyền được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản ông An thực hiện quyền này.
Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
[4] Về cấp dưỡng: Do chị Đ vắng mặt và không có ý kiến đối với việc anh A tự nguyện cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng là 5.000.000đ (mỗi cháu là 2.500.000đ/tháng). Nhưng đây là sự tự nguyện của anh A và phù hợp với khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.
[5] Về tài sản chung: Anh A trình bày tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đến. Nếu các bên có tranh chấp về tài sản sẽ được khởi kiện bằng vụ kiện khác.
[6] Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đến.
[7] Về án phí: Anh Nguyễn Lộc A phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Anh A và chị Đ được quyền kháng cáo trong theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 9; Điều 14; Điều 15; khoản 2 Điều 53; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Lộc A và chị Dương Thị Ngọc Đ.
[2] Về con chung: Giao 02 con chung tên tên Nguyễn Lộc An K, sinh ngày 04/5/2010 và Nguyễn Lộc An T, sinh ngày 07/6/2013 cho chị Dương Thị Ngọc Đ trực tiếp nuôi dưỡng.
Anh Nguyễn Lộc A không trực tiếp nuôi con chung nhưng anh A có quyền được thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản anh A thực hiện quyền này. Việc nuôi con không cố định.
Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Lộc A có nghĩa vụ cấp dưỡng hai con chung mỗi tháng là 5.000.000đ (mỗi cháu là 2.500.000đ/tháng). Việc cấp dưỡng được thực hiện kể từ ngày 30/10/2020 cho đến khi hai con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Mức cấp dưỡng sẽ được thay đổi theo từng thời điểm do pháp luật quy định.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chưa giải quyết.
[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Anh Nguyễn Lộc A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà ông Thiện đã nộp theo biên lai thu số 0005100 ngày 25/8/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên. Anh A phải nộp thêm 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
[6] Về quyền kháng cáo:
Anh Nguyễn Lộc A được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng chị Dương Thị Ngọc Đ được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bán án về tranh chấp ly hôn số 139/2020/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 139/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về